TT.
Thích Phước Sơn
Nói đến
Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu
biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm,
hay Mẹ hiền Quan Âm. Vì vị Bồ-tát nầy có đầy đủ phẩm chất của một người mẹ
trong tất cả những người mẹ. Hình như trong mọi trái tim của những người con Phật
thuần thành - nhất là giới Phật tử bình dân - không ai là không không có hình ảnh
đáng tôn kính của vị Bồ-tát giàu lòng bi mẫn nầy. Mỗi khi nói về Ngài, tựa hồ
chúng ta ai cũng biết, nhưng có lẽ không ai dám cho là mình đã hiểu biết đầy đủ
tất cả. Thế nên, trong bài nầy người viết xin giới thiệu cụ thể đôi nét chân
dung của Bồ-tát một lần nữa, để giúp đại chúng quan chiêm.
Trước hết
hãy nói về danh hiệu của Bồ-tát. Thông thường các kinh điển kể về 8 danh hiệu của
Ngài như sau: 1/. Quan Thế Âm Bồ-tát; 2/. Quán Tự Tại Bồ-tát; 3/. Quan Thế Tự Tại
Bồ-tát; 4/. Quan Thế Âm Tự Tại Bồ-tát; 5/. Hiện Âm Thanh Bồ-tát; 6/. Quan Âm(*)
Bồ-tát; 7/. Cứu Thế Bồ-tát; 8/. Quan Âm Đại Sĩ.
Trên
đây là những danh hiệu phổ biến mà nhiều người thường biết đối với vị Bồ-tát nầy.
Thế thì có những kinh điển chủ yếu nào đề cập đến xuất xứ, vị trí và những hoạt
dụng của Ngài?
I.
Chúng ta thấy đại khái hành trạng của Bồ-tát qua các kinh:
1. Theo kinh Đại
A-di-đà thì Ngài là Thị vệ bên trái, còn Bồ-tát Đại Thế Chí là Thị vệ bên phải
của đức Phật A-di-đà lo việc cứu độ chúng sinh trong thế giới Ta-bà. Cả 3 vị được
gọi chung là Tây phương Tam Thánh (3 vị Thánh ở phương Tây). Và trú xứ chính thức
của các Ngài là cõi Tây phương Tịnh độ. Phàm khi chúng sinh gặp tai nạn mà chí
thành niệm danh hiệu Quan Âm Bồ-tát, thì lập tức Ngài đến nơi cứu giúp. Do thế
mà Ngài được đức hiệu là Quan Thế Âm Bồ-tát (Vị Bồ-tát chuyên lắng nghe âm
thanh - cầu cứu - của thế gian).
2. Theo
kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn thì Ngài có 33 hóa thân, từ thân Phật, Độc giác… đến
thân đồng nam, đồng nữ. Ngài thường vận dụng 14 năng lực vô úy để cứu vớt chúng
sinh thoát khỏi ách nạn, hoặc đáp ứng những yêu cầu chính đáng khi nào chúng
sinh thành tâm niệm đến danh hiệu của Ngài.
3. Theo
kinh Thủ Lăng Nghiêm thì pháp môn tu của vị Bồ-tát nầy là Nhĩ Căn Viên Thông,
nghĩa là tai Ngài có thể được sử dụng như năm căn khác. Ngài phát tâm tu hành
nơi pháp hội của đức Phật Quan Thế Âm, và đức Phật nầy đã thọ ký cho Ngài khi
thành Phật sẽ có Phật hiệu giống như mình. Do đó mà Ngài có hiệu là Quan Thế
Âm. Đồng thời vị Bồ-tát nầy cũng có 32 ứng thân giống như kinh Pháp Hoa đã mô tả.
Chỗ
khác nhau là kinh Pháp Hoa kể đến 33 ứng thân, còn kinh Lăng Nghiêm thì liệt kê
32 ứng thân. Ngoài ra, hai kinh nầy còn giống nhau một điểm nữa là cùng mô tả về
14 đức vô úy của vị Bồ-tát nầy. Số lượng và nội dung của các đức vô úy nầy gần
y hệt như sau.
4. Theo
kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà-la-ni thì Ngài đã thành Phật từ đời quá
khứ cách nay vô lượng kiếp, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, nhưng vì nguyện lực
Đại bi, muốn làm lợi ích cho chúng sinh nên Ngài hiện thân Bồ-tát để dễ dàng
hoàn thành đại nguyện. Thế nên, ngoài danh hiệu Bồ-tát Quan Âm như chúng ta thường
nghe, có đôi chỗ còn gọi là Phật Quan Âm là vì vậy.
5. Theo
kinh Nhất Thiết Công Đức Trang Nghiêm Vương thì Ngài là Thị vệ của đức Phật
Thích-ca.
6. Theo
Mật giáo thì Ngài là hóa thân của đức Phật A-di-đà.
7. Theo
kinh Hoa Nghiêm thì đạo tràng của Ngài ở núi Bồ Đà Lạc trên biển Nam Hải. Đó là
đôi nét sơ lược về hành trạng của Bồ-tát Quan Âm mà các kinh đã đề cập đến. Bây
giờ chúng ta sẽ bàn rõ thêm một số vấn đề cụ thể khác.
II. Cuộc
đời Ngài qua các phương diện:
1. Về tín ngưỡng
Quan Âm
Tín ngưỡng
nầy phát xuất từ Ấn Độ, Tây Vực, sau đó nhờ công tác phiên dịch kinh điển mà nó
được truyền sang Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam v.v… Bản
kinh có đề cập đến Bồ-tát Quan Âm là kinh Pháp Hoa Tam Muội, gồm 6 quyển, do
Chi Cương Lương Tiếp dịch vào năm Ngũ phụng thứ 2 (255) triều đại nhà Ngô thời
Tam Quốc. Đây là bộ kinh được dịch sớm nhất là loại nầy. Sau đó, Trúc Pháp Hộ dịch
Chánh Pháp Hoa Kinh Quan Thế Âm Phổ Môn phẩm vào năm Thái Khang thứ 7 (286). Rồi
Cưu-ma-la-thập dịch Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quan Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn phẩm vào
năm Hoằng Thỉ thứ 8 (406) đời Diêu Tần.
Bắt nguồn
từ các kinh được phiên dịch ra chữ Hán kể trên mà sự tín ngưỡng Quan Âm dần dần
phát triển mạnh. Tại Tây Tạng, nền tín ngưỡng nầy rất thịnh hành. Lạt-ma giáo
cho rằng đức Đạt-lai-lạt-ma được tái sinh nhiều đời chính là hình ảnh hóa thân
của Bồ-tát Quan Âm. Ngoài ra, các nước khác tại Châu Á, chịu ảnh hưởng của Phật
giáo Bắc truyền thì hình ảnh Bồ-tát Quan Âm tượng trưng cho mẹ hiền cứu khổ, được
nhiều người thành kính tin tưởng và rất mực tôn sùng.
2. Về diệu dụng của
Quan Âm
Về sức
uy thần diệu dụng của vị Bồ-tát nầy theo kinh Pháp Hoa thì thường có 33 hiện
thân như sau: 1/. Thân Phật; 2/. Thân Độc Giác; 3/. Thân Duyên Giác; 4/. Thân
Thanh Văn; 5/. Thân Phạm Vương; 6/. Thân Đế-Thích; 7/. Thân Tự Tại Thiên; 8/.
Thân Đại Tự Tại Thiên; 9/. Thân Thiên Đại Tướng quân; 10/. Thân Tứ Thiên Vương;
11/. Thân Thái tử của Tứ Thiên Vương; 12/. Thân Nhân Vương; 13/. Thân Trưởng giả;
14/. Thân Cư sĩ; 15/. Thân Tể quan; 16/. Thân Bà-la-môn; 17/. Thân Tỷ-kheo;
18/. Thân Tỷ-kheo-ni; 19/. Thân Ưu-bà-tắc; 20/. Thân Ưu-bà-di; 21/. Thân Nữ
chúa; 22/. Thân Đồng nam; 23/. Thân Đồng nữ; 24/. Thân trời; 25/. Thân Rồng;
26/. Thân Dược-xoa; 27/. Thân Càn-thát-bà; 28/. Thân A-tu-la; 29/. Thân Khẩn-na-la;
30/. Thân Ma-hầu-la-già; 31/. Thân Người; 32/. Thân Phi nhân; 33/. Thân Thần Cầm
Kim Cương.
Đó là những hóa thân
của Quan Âm Bồ-tát. Đồng thời Ngài còn có 14 năng lực Vô úy khác nữa phát sinh
hiệu dụng khi nào chúng sinh thành tâm niệm danh hiệu của Ngài, mà kinh Pháp
Hoa cũng như kinh Lăng Nghiêm đã mô tả như sau: 1/. Chúng sinh khổ não trong 10
phương thành kính niệm danh hiệu Ngài, liền được giải thoát; 2/. Chúng sinh gặp
lửa dữ…, lửa không thể thiêu đốt; 3/. Chúng sinh bị nước cuốn trôi…, nước không
thể nhận chìm; 4/. Chúng sinh vào xứ ác quỉ…, ác quỉ không thể làm hại; 5/
Chúng sinh gặp đao trượng…, đao trượng liền gãy; 6/ Chúng sinh gặp ác quỉ, ác
thần…, thì chúng khôngg trông thấy; 7/. Chúng sinh bị gông cùm, xiềng xích…,
thì xiềng xích được tháo ra; 8/. Chúng sinh khi vào đường nguy hiểm…, giặc cướp
không thể cướp đoạt; 9/. Chúng sin tham dục…, liền dứt khỏi tham dục; 10/.
Chúng sinh nóng giận…, liền dứt hết nóng giận; 11/. Chúng sinh mê ám…, liền dứt
hết mê ám; 12/. Chúng sinh muốn cầu con trai…, liền được con trai; 13/. Chúng
sinh muốn cầu con gái…, liền được con gái; 14/. Chúng sinh niệm danh hiệu Quan
Âm thì được lợi ích bằng niệm tất cả các danh hiệu khác.
Đó là
14 diệu dụng mà đức Bồ-tát nầy dùng để hóa giải ách nạn, ban phát ân huệ cho những
chúng sinh nào có lòng thâm tín đối với Ngài.
3. Về hình tượng
Quan Âm
Trước hết
hãy nói về giới tính của Ngài, thông thường được thể hiện qua 2 hình thức, hoặc
là Nam tính, hoặc là Nữ tính.
- Nam
tính: Phật giáo Tây Tạng thờ Bồ-tát Quan Âm theo hình thức Nam tính. Đồng thời
tương truyền từ đời Đường trở về trước các nước Phật giáo khác tại Châu A cũng
tạc tượng Ngài theo hình thức Nam tính.
- Nữ
tính: Theo sách Trang Nhạc Ủy Đàm thì từ đời Đường trở về sau, các nước chịu ảnh
hưởng Phật giáo Trung Hoa, khi tạc tượng Ngài đều dùng hình thức Nữ tính.
Ngoài
ra, 3 chi phần khác là đầu, mắt, và tay của Bồ-tát thông thường được minh họa
như sau:
Đầu: Từ
một đầu, 3 đầu, 5 đầu, nghìn đầu, cho đến 84.000 đầu.
Mắt: Từ
2 mắt, 3 mắt, cho đến 84.000 mắt.
Tay: Từ
2 tay, 4 tay, cho đến 84.000 tay.
4. Về những ngày kỷ
niệm
Như tất
cả chúng ta đều biết, đặc biệt vị Bồ-tát nầy hằng năm có đến 3 ngày kỷ niệm, đó
là kỷ niệm các ngày sinh nhật, xuất gia và thành đạo:
Ngày
sinh nhật: nhằm ngày 19-2 âl.
Ngày xuất
gia: nhằm ngày 19-9 âl.
Ngày
thành đạo: nhằm ngày 19-6 âl.
5. Về nơi cư trú
Tất nhiên, do sức thần
thông diệu dụng và do bản hoài cứu khổ chúng sinh nên vị Bồ-tát nầy luôn luôn
có mặt ở khắp mọi nơi mỗi khi có người thành tâm cầu nguyện, nghĩa là có cảm
thì có ứng. Nhưng theo lẽ thông thường, chúng ta thấy các kinh ký tải về nơi cư
trú của Ngài như sau:
Ở Tây
phương Tịnh độ: theo kinh A-di-đà.
Ở núi Bồ-đà-lạc
trên biển Nam Hải: theo kinh sớ Hoa Nghiêm sớ
Ở núi
Phổ Đà, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc: theo kinh Quan Thế Âm Bồ-tát cứu khổ.
III.
Quan Âm liên hệ với Chuẩn-đề
Bây giờ xin trình
bày về mối quan hệ giữa Bồ-tát Quan Thế Âm và Bồ-tát Chuẩn-đề. Chuẩn-đề là từ
phiên âm của chữ phạn Cundi, chữ nầy còn được phiên âm là Chuẩn-chi, Chuẩn-nê,
có nghĩa là thanh tịnh; nói cho đủ là Chuẩn-đề Quan Âm, Chuẩn-đề Phật Mẫu, Phật
Mẫu Chuẩn-đề hay Thất Cu-chi Phật Mẫu. Như vậy, Chuẩn-đề hay Chuẩn-đề Quan Âm
chính là một trong những danh hiệu của Quan Âm Bồ-tát. Theo Thất Cu-chi Phật Mẫu
Chuẩn-đề Đà-la-ni kinh thì Thân vị Bồ-tát nầy có màu vàng trắng, ngồi kiết gia
trên đài sen, có hào quang tỏa sáng xung quanh, mình mặc thiên y, trên đầu
trang điểm ngọc anh lạc, có 18 tay đều đeo vòng xuyến, gồm có 3 mắt. Vị Bồ-tát
nầy chuyên hộ trì Phật pháp và bảo hộ những chúng sinh có mạng sống ngắn ngủi
được thọ mạng lâu dài. Pháp môn tu hành của vị Bồ-tát nầy là trì tụng bài chú:
"Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà Câu chi nẫm, đát diệt tha: án, chiết
lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha".
Nếu ai
chí thành trì tụng bài chú trên thì sẽ tiêu trừ tai họa, dứt hết bệnh tật, đạt
được thông minh…, nhận được một luồng hào quang chiếu đến làm tiêu tan tội chướng,
thọ mạng lâu dài, tăng trưởng phước đức: đồng thời được chư Phật, Bồ-tát gia bị,
đời đời kiếp kiếp xa lìa ác thú, mau chóng chứng đắc Vô thượng Bồ-đề.(1)
Thiên tông xem vị Bồ-tát
nầy chỉ là một danh hiệu khác của đức Quan Âm nên rất tôn sùng.. Còn tông Thai
Mật ở Nhật Bản thì xếp Ngài vào địa vị Phật, xem là Phật mẫu. Nhưng tông Đông Mật
ở Nhật thì thừa nhận Chuẩn-đề là một trong 6 danh hiệu Quan Âm, thuộc Liên Hoa
bộ. Sáu danh hiệu nầy là: 1/. Thiên Thủ Quan Âm; 2/. Thánh Quan Âm; 3/. Mã Đầu
Quan Âm; 4/. Thập Nhất Diện Quan Âm; 5/. Chuẩn-đề Quan Âm; 6/. Như Ý Luân Quan
Âm.
Theo
Chuẩn-đề Đại Minh Đà-la-ni kinh thì vì để hóa độ chúng sinh mà đức Quan Âm ứng
hóa thân vào trong lục đạo. Ngài ngự trị ở Biến Tri Viện thuộc Hiện đồ Thai tạng
giới Mạn Trà la(2).
Ở đây
xin giải thích thêm về từ "Phật Mẫu" mà ở trên đã đề cập.
Phật Mẫu
(Buddha-màtri, Budhdha-màtar) bao gồm 4 nghĩa như sau: 1/. Chỉ cho Ma-da phu
nhân (Mahà-màyà) thân mẫu của Phật, hoặc chỉ cho Ma-ha-ba-xà-ba-đề
(Mahà-prajàpatì) di mẫu của đức Thích-ca; 2/. Chỉ cho Bát-nhã-ba-la-mật
(pan??-paramita). Vì Bát-nhã (trí tuệ) có thể sinh ra tất cả chư Phật, nên Thiền
tông xem Bát-nhã là Phật mẫu (mẹ của chư Phật); 3/. Chỉ cho pháp. Vì chư Phật lấy
pháp làm thầy, do pháp mà thành Phật, cho nên gọi pháp là Phật mẫu; 4/. Chỉ cho
Phật nhãn tôn. Theo Mật giáo, đây là một trong những hình thức thần cách
hóa(3).
* * *
Qua
hành trạng của Quan Thế Âm Bồ-tát được trình bày trên đây hình như hơi khó thuyết
phục đối với nhãn quang của giới khoa học. Tin hay không tin là quyền của mỗi
người. Nhưng nếu để ý một chút, chúng ta sẽ thấy rằng hằng ngày trên thế giới nầy
không biết bao nhiêu Thiên tai, chiến nạn xảy ra, và cũng không biết bao nhiêu
tấm lòng từ bi nhân ái sẵn sàng nhường cơm xẻ áo hầu xoa dịu phần nào những nỗi
đau thương thống khổ của đồng bào, đồng loại. Chứng kiến những cảnh tượng ấy,
hiển nhiên chúng ta sẽ không còn ngờ vực gì nữa về diệu dụng từ bi cứu khổ, cứu
nạn của đức Bồ-tát Quan Thế Âm đối với thế gian nầy.
Chú
Thích:
(*) Quan Âm: Tên
Ngài gọi đủ là Quan Thế Âm, nhưng vì người đời Đường ở Trung Quốc kiêng húy chỉ
"Thế" nên gọi tắt là Quan Âm. Rồi từ đó trở về sau, nhiều người gọi
mãi thành quen, vì thế mà có danh hiệu Quan Âm Bồ Tát.
(1) (2) (3): Phật
Quang Đại Từ Điển, các trang 4058, 5515, 2619.