69.1
Đỗ Kiên Cường
Đỗ Kiên Cường
Trên
xưa & nay số 96 (144) tháng 7-2001 có bài viết “thuyết Big Bang” về sự phát
sinh vũ trụ. Thiển nghĩ một bức tranh khái quát và chính xác về lịch sử nhận thức
vũ trụ cũng cần thiết đối với các nhà sử học. Đó là lý do bài viết này.
Lược sử thuyết vụ nổ lớn
Cho đến
đầu thế kỷ 20, bằng chứng thực tiễn duy nhất về nguồn gốc vũ trụ là bầu trời
ban đêm tối đen. Nghịch lý Olbers (1823) cho rằng nếu vũ trụ vô tận trong không
thời gian thì nó phải có nhiều sao đến mức khi nhìn lên bầu trời, tia mắt ta
bao giờ cũng gặp một ngôi sao. Và ta sẽ thấy bầu trời luôn sáng rực như mặt trời,
ngay cả vào ban đêm. Nhưng thực tế bầu trời ban đêm lại tối đen. Thật thú vị là
trong bài thơ văn xuôi dài Eureka năm 1848, Edgar Poe cho rằng, đó là do các
ngôi sao không đủ thời gian để chiếu sáng toàn vũ trụ. Vậy bầu trời đêm tối đen
chứng tỏ vũ trụ không tồn tại mãi mãi. Không chỉ đứng vững trước thử thách của
thời gian mà giả thuyết còn đóng vài trò quyết định trong việc hình thành lý
thuyết Big Bang.
Cơ sở
lý luận của Big Bang là thuyết tương đối tổng quát, cho rằng không thời gian là
các đại lượng động lực, phụ thuộc vật chất đồng thời chi phối vật chất (lưu ý
quan niệm của Engels, cho rằng không thời gian là hình thức tồn tại của vật chất).
Điều đó dẫn tới việc không thời gian và do đó vũ trụ có thể có khởi đầu và kết
thúc, một ý tưởng mà ban đầu chính Einstein cũng tìm cách chống lại. Để vũ trụ
là tĩnh (không tự suy sụp do hấp dẫn), ông đưa ra một hằng số vũ trụ có tác dụng
phản hấp dẫn. Năm 1922, Friednam tìm được nghiệm của phương trình Einstein cho
một vũ trụ động, gần như đồng thời với giả thuyết nguyên tử nguyên thuỷ của mục
sư Lemaitre.
Bằng chứng
quyết định là phát hiện vũ trụ giãn nở của Hubble những năm 1920. Cho đến lúc
đó, dải Ngân hà của chúng ta được xem là toàn bộ vũ trụ. Với viễn kính 100 inch
tại núi Wilson, Hubble thấy Tinh vân Tiên nữ, một thiên hà sáng đôi cách 2 triệu
năm ánh sáng, đang tiến lại gần chúng ta (theo ngôn ngữ vật lý dựa trên hiệu ứng
Dopler, phổ của nó dịch về phía xanh). Khảo sát các thiên hà khác, ông thấy
chúng đang tản ra xa (phổ dịch về phía đỏ). Điều đó có nghĩa vũ trụ gồm hàng tỷ
thiên hà đang tản xa nhau. Vũ trụ hiện đang giãn nở và các thiên hà ngày càng
xa nhau chứng tở trong quá khứ chúng gần nhau, khi vũ trụ có kích thước nhỏ
hơn. Suy diễn ngược thời gian sẽ đi đến thời điểm khai sinh, không toàn vũ trụ
tập trung tại một điểm, nới có mật độ, nhiệt độ và độ cong không thời gian vô hạn.
Và một vũ trụ bùng nổ 15 tỷ năm trước đã khiến vũ trụ sinh thành. Đó là mô hình
Big Bang tiêu chuẩn.
Năm 1946,
nhà vật lý Gamow thấy rằng, ngọn lửa sáng thế buổi hồng hoang vẫn để lại “vết
lông ngỗng” qua bức xạ tàn dư trải trên toàn vũ trụ, nay lạnh chỉ còn cỡ 3 độ
trên độ không tuyệt đối. Năm 1965, hai kỹ sư vô tuyến điện Penzias và Wilson
tình cờ phát hiện được bức xạ này khi chế tạo một ăng ten có thể bắt sóng từ vệ
tinh. Như từng xẩy ra trong lịch sử, giải Nobel danh giá được trao cho phát kiến
tình cờ của hai người ngoại đạo! Năm 1991, vệ tinh Cobe đo được phông bức xạ
hoá thạch 2,7 0K này với độ chính xác rất cao. Và Big Bang được thừa nhận rộng
rãi.
Khá hài
hước là cái tên Big Bang lại do nhà thiên văn Hoyle đặt ra năm 1950 nhằm chế diễu
lý thuyết. Ông là người đề xuất thuyết vũ trụ dừng (steady state) năm 1948,
theo đó vũ trụ không có khởi đầu và kết thúc. Sau khám phá bức xạ tàn dư, nó đã
chêt vẻ vang như hầu hết các lý thuyết khoa học khác.
Thuyết Big Bang lạm phát
Cuối những
năm 1970, mô hình Big Bang tiêu chuẩn đối mặt với một số thách thức, trong đó
có vấn đề tính đồng nhất của vũ trụ. Tại sao vũ trụ lại tương đối đồng nhất,
như bức xạ hoá thạch chứng tỏ? Đó là lý do Guth và Linde giả định một sự giãn nở
lạm phát từ 10-35 tới 10-32 giây sau Big Bang. Trong giai đoạn cực ngắn đó, vũ
trụ giãn nở nhanh hơn ánh sáng, với bán kính tăng một ngàn tỷ tỷ tỷ lần. Như quả
bong bóng phồng lên rất nhanh thì các nếp nhăn ban đầu giãn ra với độ nóng gần
như nhau, sự giãn nở đó khiến vũ trụ trở nên đồng nhất. Đó là thuyết Big Bang lạm
phát, một lý thuyết giải quyết được nhiều bài toán vũ trụ học.
Big
Bang từ đâu xuất hiện? Big Bang sinh ra vũ trụ, vậy cái gì sinh Big Bang? Năm
1951, nhà thờ tuyên bố Big Bang chính là hiện tượng của đấng sáng tạo. Nên giới
khoa học đưa ra nhiều giả định nhằm tránh quan điểm đó.
Một giả
thuyết là vũ trụ luân hồi của Wheeler, cho rằng lực hấp dẫn sẽ thắng dần sự
giãn nở và vũ trụ có về Vụ co lớn (Big Bang Crunch).
Và vụ
bùng nổ tiếp theo sẽ khiến vũ trụ hồi sinh từ đống tro tàn. Quá trình cứ lặp lại
mãi với các pha co giãn xen kẽ nhau. Đáng tiếc Big Crunch không phải là đối xứng
gương hoàn hảo của Big Bang, và các vụ nổ sẽ ngày càng lớn hơn. Vì thế vũ trụ vẫn
có thể có điểm khởi đầu tối hậu, một chủ đề thần học ưu thích.
Một vấn
đề cũng được giới thần học ưu thích là giá trị của các hằng số vật lý (như khối
lượng điện tử hay tốc độ ánh sáng). Người ta rất ngạc nhiên là chỉ cần một
trong hàng chục hằng số vũ trụ đó thay đổi giá trị một phần trăm, vũ trụ đã diễn
biến khác hẳn và con người không thể xuất hiện để nghiên cứu vũ trụ. Nên một số
nhà khoa học cho rằng, vũ trụ đã được hiệu chỉnh cực kì chính xác nhằm tạo ra
con người. Vì thế nhà thiên văn học Trịnh Xuân Thuận, là một phật tử, đặt niềm
tin vào ý chí tối cao. Không đồng ý với niềm tin đó, nhiều nhà khoa học nêu giả
thuyết các vũ trụ song song hay đa vũ trụ. Có thể hình dung một cách trực quan
qua trò thổi bong bóng xà phòng, mỗi bong bóng là một vũ trụ với hệ qui luật và
các giá trị hằng số riêng. Phần lớn các vũ trụ không thích hợp với sự sống. Vũ
trụ chúng ta chỉ là một bong bóng may mắn co các hằng số thích hợp để con người
xuất hiện. Đây chính là sự tiếp bước Copernicus đến giới hạn tột cùng. Không chỉ
tước bỏ vị trí trung tâm của trái đất hay mặt trời, nó còn cho rằng Ngân hà chỉ
là một trong vô vàn các thiên hà vũ trụ; thậm chí vũ trụ chúng ta cũng chỉ là một
bong bóng mất hút giữa ngút ngàn các bong bóng đa vũ trụ. Và đa vũ trụ này có
thể mất hút giữa vô vàn các đa vũ trụ khác.
Tuy
nhiên dường như đó chỉ là những suy đoán thuần tuý, vì ta chưa có thuyết hấp dẫn
lượng tử để nhìn qua bức tường Planck, hiện được xem là giới hạn của nhận thức
(thời gian Planck là 10-43 giây, độ dài Planck là 10-33 cm, nhỏ hơn kích thước
nguyên tử 10 triệu tỷ tỷ lần. Nếu khuếch đại nguyên tử lớn bằng vũ trụ nhìn thấy,
độ dài Planck sẽ bằng một cái gậy!). Toàn bộ lập luận trên dựa trên thuyết
tương đối tổng quát (mô tả cấu trúc vĩ mô) và cơ học lượng tử (mô tả cấu trúc
vi mô). Đáng tiếc là hai thuyết không tương thích nhau. Ở qui mô vũ trụ, có thể
bỏ qua các thăng giáng lượng tử xuất hiện do nguyên lý bất định Heisenberg. Còn
ở các cấu trúc nhỏ cỡ kích thước Blanck, các thăng giáng đó rất mạnh nên giả
thuyết không thời gian biến đổi liên tục và nhẵn của thuyết tương đối bị phá vỡ.
Người ta nói các quy luật khoa học bị phá vỡ tại các kì dị (là vùng nhỏ hơn độ
dài Planck nên mật độ vật chất lớn vô hạn).
Big Bang trong lý thuyết dây
Lý thuyết
trường lượng tử xem các hạt cơ bản (như điện tử, quark....) là chất điểm không
kích thước. Năm 1984, lý thuyết dây xuất hiện để thống nhất thuyết tương đối và
thuyết lượng tử, hai nền tảng của vật lý hiện đại. Theo đó cấu tử cơ bản của vũ
trụ là dây một chiều (giống đoạn dây nhìn từ xa nên dường như chỉ có chiều
dài), màng hai chiều (giống tờ giấy mỏng vô hạn) hay các thực thể nhiều chiều
hơn (đến 10 chiều). Chúng luôn dao động và các kiểu dao động cộng hưởng được
xem là các hạt cơ bản mà ta thấy. Khác với không thời gian bốn chiều trong thuyết
tương đối, không thời gian trong lý thuyết dây có 11 chiều, với bảy chiều cong
lại và nhỏ bằng độ dài Planck. Đó là lý do ta sống trong 11 chiều mà chỉ “thấy”
bốn chiều đã trải rộng ra nhờ vụ nổ lớn.
Quá đẹp
nên chỉ có thể hoặc đúng hoàn toàn hoặc sai hoàn toàn (phê phán năm 1986 của
nhà vật lý hạt cơ bản đoạt giải Nobel Glashow), lý thuyết dây chứng tỏ các qui
luật vật lý của thế giới “nhỏ” sau bức tường Planck hoàn toàn đồng nhất thế giới
“lớn” trước bức tường. Điều đó cho phép đưa ra kịch bản mới cho Big Bang, theo
đó khởi thuỷ không phải là một kì dị, mà là một trạng thái “hấp dẫn lượng tử” kích
thước Planck với 11 chiều. Rồi một vụ nổ khiến bốn chiều không thời gian giãn
ra tạo nên vũ trụ (lý thuyết dây giải thích được tại sao bảy chiều khác vẫn
cong nhỏ như trước). Và nếu co lại, vũ trụ cũng không co về điểm kì dị chung cục
Big Crunch (như mô hình Big Bang tiêu chuẩn), mà chỉ co đến kích thước Blanck rồi
lại nở ra. Quá trình có thể lặp lại mãi như thế.
Theo lý
thuyết dây thì vũ trụ chúng ta cũng có thể là một màng bốn chiều, vốn là biên của
một hình cầu năm chiều. Nằm cách ta một khoảng cách vi mô trong chiều thứ năm
là một màng khác, được gọi là “màng bóng” (như hình với bóng, nhưng bóng cũng
thực như hình). Hai màng hình và bóng chỉ tương tác nhau qua lực hấp dẫn. Khi
đó vật chất hay năng lượng tối của màng này chính là vật chất thông thường của
màng bên cạnh. Hai màng có thể tự co giãn và va chạm nhau. Đối với chúng ta
(đang sống trên một màng), cú và chạm chính là Big Bang. Và có thể có nhiều vụ
nổ và co lớn nhỏ nối tiếp hay xen kẽ nhau. Điều đó giúp loại bỏ niềm tin về một
ý chí tối cao.
Đa vũ trụ từ đâu xuất hiện?
Vũ trụ
chúng ta là một trong những bong bóng mang tên đa vũ trụ. Vậy đa vũ trụ từ đâu
xuất hiện và xuất hiện như thế nào? Câu trả lời là đa vũ trụ xuất hiện từ hư vô
do nguyên lý bất định Heisenberg.
Nguyên
lý bất định của cơ học lượng tử nói rằng, không thể xác định chính xác đồng thời
vị trí và tốc độ của một hạt vi mô. Đó là hệ quả của lưỡng tính sóng hạt. Vì thế
giá trị của các trường vật lý phải khác không ngay cả trong chân không, tức giá
trị (hay vị trí) và sự biến thiên (hay tốc độ) được xác định chính xác đồng thời
(đều bằng không). Đó là điều nguyên lý bất định cấm, nên các trường phải khác
không và luôn thăng giáng. Trường là tập hợp các hạt, trường biến thiên có
nghĩa các hạt luôn xuất hiện rồi biến mất. Năng lượng của hạt càng lớn thì nó
biến mất càng nhanh. Tương tự như thế, một bong bóng năng lượng cũng có thể xuất
hiện rồi lại biến mất. Đó là cách để đa vũ trụ xuất hiện từ hư vô.
Cần lưu
ý rằng, năng lượng của vật chất là dương, còn năng lượng hấp dẫn là âm, nên nếu
đa vũ trụ là “phẳng” trong không thời gian 11 chiều, hai dạng năng lượng có giá
trị bằng nhau. Kết quả là năng lượng toàn vũ trụ bằng không, và nguyên lý bất định
cho phép nó tồn tại mãi mãi. Đó là ý tưởng độc đáo đến mức, khi được Gamow kể
cho nghe tại Viện nghiên cứu tiền phong Princeton (Mỹ) cuối những năm 1940,
Einstein đứng sững giữa đường khiến hai người suýt bị xe đâm chết.
Đôi điều
suy ngẫm
Chỉ
trong vòng một thế kỷ, nhận thức nhân loại về vũ trụ đã trải qua nhiều bước đột
phá. Sự thống nhất giữa vi mô và vĩ mô, như thể hiện trong lý thuyết dây, cho
phép đưa ra bức tranh tổng thể về nguồn gốc, tiến hoá và kết cục của vũ trụ.
Theo đó vũ trụ chúng ta chỉ là một trong vô vàn các bong bóng của một đa vũ trụ
mênh mang, huyền bí (theo nghĩa ta không thể giao du). Và đa vũ trụ này có thể
xuất hiện một cách tự nhiên từ hư vô với tổng năng lượng bằng không, cho dù
năng lượng của từng vũ trụ có thể có giá trị tuỳ ý. Từ không hiện hữu biến
thành hiện hữu, đó chính là một bữa tiệc không mất tiền tối hậu.
Vậy tại
sao có nguyên lý bất định để vũ trụ có thể sinh thành từ hư vô? Tại sao bộ máy
không thời gian lại cho phép tổng năng lượng chính xác bằng không để vũ trụ tồn
tại mãi mãi? Vẫn có người xem đó là dấu ấn của một đấng tối thượng. Một số người
như Stephen Hawking lừng danh của tác phẩm Lược sử thời gian, 1988, với hơn 10
triệu bản bán trên thế giới – thì dung nguyên lý vị nhân (một giả thuyết mang
tính hậu nghiệm, xem vũ trụ phải diễn biến thích hợp để con người xuất hiện) để
cho rằng, nếu vũ trụ không như vậy thì làm sao có con người để băn khoăn về vũ
trụ. Số khác thì đồng ý với Brian Greene trong cuốn Vũ trụ duyên dáng (đấu giá
được hai triệu đô la từ NXB, tái bản ba lần sau một tháng ấn hành năm 1999) rằng,
lý thuyết dây có thể là con đường dẫn về La Mã, khi đang được xem phát điểm của
một lý thuyết có tính tối hậu cao hơn trong tương lai. Và nhân loại từng bước
vươn tới các vì sao.
Tác giả
Đỗ Kiên
Cường
http://tusach.thuvienkhoahoc.com/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_v%C5%A9_tr%E1%BB%A5_v%C3%A0_thuy%E1%BA%BFt_v%E1%BB%A5_n%E1%BB%95_l%E1%BB%9Bn