77.1
Tác giả : Chân Văn Trịnh Xuân Thuận
Thượng tuần tháng
06/2012, nhà vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận đã từ Mỹ đến Paris nhận Giải thưởng
Prix Mondial Cino Del Duca do giới Hàn lâm Pháp trao tặng. Trước đó, ông đã ghé
Làng Mai - miền tây nam nước Pháp - thuyết trình về Khoa học và Phật giáo, đồng
thời đối thoại với Thiền sư Nhất Hạnh về
cái nhìn của đạo Phật đối với khoa học.
Được sự đồng ý của tác giả, RFI xin đăng lại bài tường thuật của
nhà nghiên cứu Đỗ Quý Toàn, có mặt tại Làng Mai nhân buổi thuyết trình của giáo
sư Trịnh Xuân Thuận.
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã thuyết trình trong khóa tu
tại Làng Mai về Khoa học và Phật giáo vào đầu tháng Sáu năm 2012; và sau đó, với
tư cách một nhà khoa học ông đã đặt một số câu hỏi với Thiền sư Nhất Hạnh về
cách nhìn của đạo Phật đối với một số vấn đề căn bản trong khoa học hiện đại.
Khóa tu tại Làng Mai, ở vùng tây nam nước Pháp gần
thành phố Bordeaux, diễn ra trong 21 ngày, kể từ ngày 1 tháng Sáu năm 2012, quy
tụ hơn 900 thiền sinh đến từ gần 30 quốc gia khác nhau. Ngôn ngữ chính được sử
dụng là tiếng Anh, với tám nhóm thông dịch đồng thời sang tiếng Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha, tiếng Ý, tiếng Thái, tiếng Nhật; tiếng Trung Hoa dịch cho nhiều người
đến từ Singapore, Hồng Kong, Mã Lai, Đài Loan...; nhóm đông nhất là những người
nghe tiếng Việt và tiếng Pháp.
Trong bài thuyết trình vào ngày Chủ Nhật 3 tháng Sáu
2012 tại Xóm Hạ, Làng Mai, ông Trịnh Xuân Thuận đã nêu lên một số lý thuyết
trong môn vật lý học hiện tại để so sánh với những quan điểm trong truyền thống
Phật giáo. Là một nhà chuyên khảo về vũ trụ học, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cho
biết Vật lý học đã nhận thấy một số điểm tương đồng giữa Phật giáo và khoa học.
Những điểm “hội tụ” (convergence) mà ông nhìn ra là
tính tương quan và tùy thuộc vào nhau của mọi hiện tượng vật lý
(interdependence); tính trống rỗng (vacuity, emptiness) của vạn pháp; và tính
vô thường (impermanence).
Nhiều khám phá trong khoa học trong một thế kỷ gần đây
đã đưa tới những cách nhìn giống như quan điểm của đạo Phật từ nhiều ngàn năm
qua. Thí dụ, tính bất khả phân (non-seperability) của mọi vật; mối liên quan
không thể tránh giữa chủ thể quan sát và đối tượng được khảo sát (tương tức,
tương nhập); vân vân.
Trong khi các bộ môn khoa học sử dụng lý trí với các
phương pháp phân tích toán học và thí nghiệm để gia tăng hiểu biết có tính chất
khách quan và định lượng của con người về vũ trụ chung quanh mình, thì Phật
giáo là một truyền thống tu tập với cách nhìn toàn diện theo đuổi mục tiêu trị
liệu, đưa tới giác ngộ toàn diện (enlightenment) chứ không nhằm hiểu biết thuần
túy.
Phật
giáo không nhìn thế giới theo lối lưỡng nguyên (tâm và vật) nhưng cũng không cố
chấp vào cách nhìn phi lưỡng nguyên. Từ nhận định về tính tương lập
(interdependence) của mọi vật và mọi người, Phật giáo đã dẫn tới đức từ bi như
là một cách biểu hiện khác của trí tuệ.
Một ngày sau cuộc thuyết trình trên, Giáo sư Trịnh
Xuân Thuận đã đặt với Thiền sư Thích Nhất Hạnh một số thắc mắc của một nhà khoa
học để tìm hiểu cách giải đáp của Phật Giáo. Thứ nhất là Phật giáo yêu cầu phải
vượt qua những chướng ngại do sự hiểu biết gây ra, một điều khác với khảo hướng
của khoa học là luôn luôn dựa trên những hiểu biết đã có để đi tìm các hiểu biết
mới.
Thứ hai là quan điểm Phật giáo về trình độ ý thức
(consciousness) của loài người so sánh với các sinh vật khác, với vật chất vô
sinh, cho tới các hạt nhân. Khoa học, kể từ Einstein, đã nhìn ra thời gian chỉ
là một kích thước mới của không gian, điều này tư tưởng đạo Phật đã nhận định
ra sao. Điểm sau cùng là theo quan điểm Phật giáo, mọi vật đều là do biểu hiện
của tâm thức, thì như vậy có một thế giới hoàn toàn vật chất ở ngoài tâm thức
hay không?
Thiền sư Nhất Hạnh đã trình bầy cách nhìn của Phật
giáo trước các vấn đề trên, dựa trên sự phân biệt “sự thật tương đối” (tục đế)
và “sự thật tuyệt đối” (chân đế) trong truyền thống Phật giáo. Các độc giả quan
tâm có thể tìm trong website của Làng Mai (langmai.org hoặc plumvillage.org).
Những lời trình bầy của Hòa thượng Nhất Hạnh trong các khóa tu chỉ nhắm hướng dẫn
các các thiền sinh trong việc tu học hơn là chú trọng đến những kiến thức mà
các nhà nghiên cứu quan tâm.
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận là tác giả nhiều cuốn sách được
phổ biến rất rộng khắp thế giới về đề tài vũ trụ học. Ông cũng viết chung với
Matthieu Ricard, một tăng sĩ người Pháp tu theo truyền thống Tây Tạng, cuốn
L'Infini dans la paume de la main (Vũ trụ trong lòng bàn tay), về tương quan giữa
khoa học và đạo Phật. Matthieu Ricard vốn là một nhà nghiên cứu về thần kinh học
tại Trung Tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học nước Pháp (CNRS, Centre National de
Recherches Scientifiques) trước khi đi tu.
Hội tụ
giữa Khoa học và Đạo Phật
Tựa đề cuốn sách trên, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cho biết,
là do câu thơ thứ ba trong đoạn đầu bài thơ Auguries of Innocence của William
Blake:
To see a world in a grain of sand,
And a heaven in a wild flower,
Hold infinity in the palm of your hand,
And eternity in an hour.
(Nhìn thấy cả thế giới trong một hạt cát - Và thiên đường
trong một đóa hoa dại – Nắm vô cực trong bàn tay của anh – Và vĩnh cửu trong một
giờ khắc)
Khi cuốn sách này được dịch sang tiếng Anh, ấn hành
năm 2001, nhà xuất bản đã đề nghị đổi tựa: Lượng Tử và Hoa Sen, The Quantum and
the Lotus cho dễ phổ biến hơn.
Bài thuyết trình của Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đối chiếu
giữa quan điểm Phật Giáo về vũ trụ và nhân sinh với các hiểu biết khoa học để
nêu ra những tương đồng giữa hai bên; ông đặt tựa là, Science and Buddhism: A
Meeting of the Mind (Khoa học và Phật Giáo: Cuộc Gặp gỡ tại Tâm). Sau đây là một
số điểm chính trong bài thuyết trình của ông.
Tương Tức
Một điểm được nêu lên đầu tiên là tính chất tương tức,
tương lập (interdependence) của “vạn pháp,” tức là sự liên quan chằng chịt giữa
mọi hiện tượng vật lý và tâm lý, theo lối nhìn của Phật Giáo.
Trong khoa học, Trịnh Xuân Thuận nhắc đến một hiện tượng
được nêu lên trong một bài do Boris Podolsky viết được in năm 1935 ký tên
Einstein-Podolsky-Rosen (EPR), để thách thức Vật lý học Lượng tử (Quantum
Physics). Vấn đề được nêu lên liên hệ tới hiện tượng vật lý trong phạm vi cực
nhỏ bên trong các nguyên tử, gọi là những “hạt dính líu” (entangled particles).
Nhiều nguyên tử bị kích thích phát ra hai hạt pho ton
(photons) đi về hai phía khác nhau. Những pho ton này có đặc tính nếu một cái bị
kích thích để xoay thì cái thứ hai cũng xoay theo một chiều thẳng góc với cái
thứ nhất, dù ở cách xa hàng ngàn dặm cũng vậy.
Một cách giải thích hiện tượng này theo Cơ học Lượng tử,
coi như hai hạt pho ton đã “thông tin” được với nhau, sẽ trái nghịch với Thuyết
Tương Đối của Einstein vì không có thông tin nào có thể đi nhanh hơn tốc độ ánh
sáng. Do đó Einstein kết luận Cơ học Lượng tử không giải thích được đầy đủ các
hiện tượng vật lý và đề nghị một lối giải thích khác. Các cuộc nghiên cứu và
thí nghiệm sau này cho thấy lối giải thích của EPR cũng không đứng vững; thí dụ,
cuộc thí nghiệm của Alain Aspect năm 1982 về những cặp pho ton cho thấy
Einstein không đúng.
Hiệu ứng “Hạt Dính Líu” đã được dùng trong kỹ thuật
thông tin và trong máy vi tính dựa trên hiện tượng này, khi kích thích một pho
ton có thể gây phản ứng của một pho ton khác dù cách nhau vạn dậm, giúp cho máy
vi tính lượng tử chạy nhanh hơn các máy vi tính bình thường.
Khám phá “mọi hiện tượng dính líu với nhau” như trên tương đồng với
quan niệm Phật Giáo trong các kinh điển Đại Thừa, như kinh Hoa Nghiêm đã diễn tả
tính tương tức, tương nhập của vạn pháp. Một đoạn trong Đệ Nhất Nghĩa Không
Kinh (The Discourse on the Emptiness in its Ultimate Meaning) được thuyết giảng
trong khóa tu tại Làng Mai lần này, viết: “thử hữu cố bỉ hữu; thử khởi cố bỉ khởi,
…” (có cái này nên mới có cái
kia, cái này dấy lên nên cái kia dấy lên).
Theo Phật Giáo thì mỗi sự vật, hiện tượng đều do các
“nhân duyên” khác tạo thành, tất cả mọi vật, mọi hiện tượng là nhân duyên lẫn của
nhau (mutual causation). Hệ luận của quan niệm này là tính tương lập của “vạn
pháp,” không có cái gì tự làm nguyên nhân duy nhất của chính nó.
Một hệ luận khác là thực tại (reality) trong vũ trụ có
tính toàn thể không thể phân chia được. Vật lý học hiện đại cũng tiến tới một
quan điểm tương tự. Như ông Trịnh Xuân Thuận nói một cách văn vẻ: Vũ trụ Vật lý
học hiện đại (Astrophysics) cho thấy là tất cả chúng ta chỉ là những hạt bụi của
các vì sao; chúng ta có cùng một lịch sử trong vũ trụ giống như các loài hoa cỏ,
các sinh vật khác.
Trong thời gian và không gian, tất cả chúng ta tương lập
với nhau. Thông điệp chính yếu của khoa học, đặc biệt của cơ học lượng tử, là
có một thực tại sâu xa hơn những gì mà giác quan của chúng ta nhận thấy, một thực
tại ẩn tàng.
Khoa học đã gặp Phật Giáo trong lối nhìn này; nhưng sử
dụng các khảo hướng khác nhau. Khoa học dùng “ngôn ngữ” toán học và dùng thí
nghiệm thực tế để kiểm chứng. Phật Giáo dùng trực giác và kinh nghiệm tâm linh.
Nếu không có khoa học thì Phật Giáo vẫn tồn tại; mà nếu không có Phật Giáo thì
khoa học vẫn được phát triển.
Người ta không cần phải ràng buộc cả hai lại bằng bất
cứ giá nào. Điều chúng ta muốn hiểu là thấy được tính tương đồng nhất quán của
hai bên. Cả hai đều nói về một đối tượng là thực tại, và mỗi bên đều có tính chất
nhất quán (coherent) trong phạm vi của mình; thế nào cũng có thể so sánh để thấy
những điểm hội tụ giữa khoa học và Phật Giáo.
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cũng phân biệt: Mục đích của
Phật Giáo có tính chất trị liệu (therapeutic): Làm sao để sống tốt đẹp hơn, mục
tiêu sau cùng là giác ngộ. Trong khi đó khoa học nhằm tìm hiểu thế giới, khám
phá các định luật chi phối cả vũ trụ, những luật coi là bất biến trong vũ trụ,
khiến người ta thấy vũ trụ có một thứ trật tự, một hòa điệu và vẻ đẹp trong vũ
trụ; chứ không phải chỉ là một mớ hỗn độn (chaos).
Trịnh Xuân Thuận là tác giả các cuốn sách mang tên Giai điệu huyền
bí (La Mélodie Secrète), Hỗn mang và Hòa điệu (Le Chaos et l'Harmonie).
Einstein, cũng như nhiều nhà khoa học khác, trong đó
có những người khám phá cơ học lượng tử, đều nói rằng Phật Giáo là một tôn giáo
có khả năng phù hợp nhất với hiểu biết khoa học. Thí dụ, trong khoa học người
ta biết là ánh sáng vừa là những hạt nhân, vừa là sóng. Làm sao một thứ có thể
là hai dạng hoàn toàn khác nhau như vậy ?
Trong truyền thống tư tưởng Tây phương, lối nhìn này
không thể nào hiểu được. Nhưng Phật Giáo có thể chấp nhận lối nhìn đó; bởi vì theo
Phật Giáo thì mọi vật đều không có tự tánh, cho nên có thể là một cái này mà
cũng là cái khác hẳn.
Tính
Không
Vật lý học hiện đại cũng chia sẻ với Phật Giáo trong
cách nhìn thấy tính chất trỗng rỗng của vạn vật, gọi là Tính Không. Vật chất do
các nguyên tử tạo thành, mà trong các nguyên tử có thể nói là trống rỗng, với
những hạt vận chuyển. Thuyết Cơ học Lượng tử cho biết: Những hạt này, căn bản của
mọi vật chất, có hai đặc tính; một là hạt và hai là sóng.
Trước khi đem các dụng cụ để quan sát, mỗi hạt chỉ có
thể được mô tả bằng một xác suất. Điều duy nhất mà chúng ta có thể biết và nói
về một hạt là nó có một xác suất sẽ hiện ra ở một chỗ này hay chỗ khác. Khi
chúng ta dùng khí cụ để đo lường, sẽ thấy mỗi hạt có một vị trí và một tốc độ,
nhưng bị giới hạn bởi Nguyên lý Bất định của Heisenberg: Không thể thấy cả hai
đặc tính đó cùng một lúc một cách chắc chắn. Trong phạm vi nghiên cứu nhỏ bên
trong các nguyên tử, hành động của người quan sát sẽ ảnh hưởng ngay đến vật được
quan sát.
Khoa học hiện đại còn chưa biết thật sự vật chất trong
vũ trụ này nó thế nào, chúng ta chỉ biết
được khoảng 4% về vũ trụ, còn 96% không hề biết gì cả. Những gì chúng ta nhìn thấy trên các giải ngân hà
sáng trong bầu trời chỉ là nửa phần trăm của vũ trụ. Tất cả còn là một “giai điệu
huyền bí.”
Các nhà vật lý học đã nói đến giả thuyết có một “năng lượng tối” gây ra sự thành hình của
vũ trụ, trong đó một phần là vật chất có trọng lực rất mạnh nhưng không phát ra
một “ánh sáng” nào có thể trông thấy được, mà người ta gọi là “vật chất tối.” Chúng ta chưa biết gì về vật chất đen (hay tối) cũng
như năng lượng đen (hay tối); chỉ biết là nếu không có chúng thì khó giải thích
sự phát sinh và tồn tại của vũ trụ.
Các nhà khoa học chưa biết đâu là biên giới nơi vũ trụ
lớn gặp vũ trụ vi tiểu trong đó các hạt và sóng lượng tử do nguyên lý bất định
ngự trị, mà ra đến vũ trụ vĩ đại thì nguyên lý đó không còn hiệu lực. Mỗi ngày
các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục đẩy biên giới của thế giới lượng tử ra xa hơn,
mở ra những chân trời mới.
Ông Trịnh Xuân Thuận nhắc lại: Tất cả vật chất như
trong chính cơ thể chúng ta đều bắt đầu được tạo nên từ khi các vì sao phát
sinh trong vũ trụ. Từ gần 4 tỷ năm trước, những hạt bụi tinh cầu đó đã biến
chuyển tạo ra những nguyên tố đầu tiên của sự sống, rồi tiến hóa dần đến loài
người.
Tổ tiên của tất cả chúng ta và các sinh vật khác là
các vì sao; lịch sử vũ trụ cũng chính là tiểu sử của chúng ta. Tất cả bắt đầu
trước đây 14 tỷ năm, dần dần đưa tới sự xuất hiện của loài người và ý thức. Tìm
hiểu vũ trụ chính là đi tìm lại gia phả của chúng ta; quán sát các thiên hà
cũng là nhìn vào chính bản thân mình.
Chúng ta có thể quan sát được hàng trăm tỷ thiên hà
như giải Ngân Hà, mỗi thiên hà chứa hàng trăm tỷ các vì sao giống như mặt trời.
Nếu mỗi vì sao đó có chừng mươi hành tinh giống như trái đất; thì chúng ta thấy
ngay là không thể nghĩ rằng trái đất nơi ta sống là hành tinh duy nhất có sự sống.
Chắc phải có cuộc sống với trí thông minh ở ngoài trái
đất, họ cũng đang quán sát vũ trụ như chúng ta. Einstein, một thần tượng của
tôi, Trịnh Xuân Thuận, phải lấy làm ngạc nhiên tại sao con người lại có khả
năng tìm hiểu cả vũ trụ; ông coi đó là “một điều khó hiểu nhất!”
Vô Thường
Một quan niệm căn bản trong truyền thống Phật Giáo là
tính Vô Thường (impermanence) của vạn pháp, mọi sự vật, mọi hiện tượng. Trước
đây, khoa học Tây phương đã bị ràng buộc trong nhiều thế kỷ với khái niệm từ thời
cổ Hy Lạp về tính bất biến của các hiện tượng thiên văn; vì Aristote nói rằng
cái gì thuộc về loài người thì thay đổi, phù du; còn thế giới các thần linh,
như các vì sao trên bầu trời thì vĩnh cửu và không bao giờ thay đổi, bởi vì các
vị thần linh đều hoàn hảo tuyệt đối.
Vì vậy, vào ngày 4 tháng Bẩy năm 1054, ban đêm trên bầu
trời xuất hiện một thiên thể hoàn toàn mới sáng rực, nó sáng như Kim Tinh,
Vénus, ngay cả ban ngày mắt thường cũng nhìn thấy, và kéo dài hàng mấy tuần lễ
liền; nhưng các nhà thiên văn tài giỏi ở Âu Châu thời đó không hề ghi nhận họ
thấy “ngôi sao” mới này trong niên biểu thiên văn học đương thời.
Bởi vì theo quan niệm của họ thì bầu trời của các vị
thần linh là bất biến. Thiên thể trên, có nguồn gốc là phần còn lại của một vụ
nổ sao mà ngày nay chúng ta gọi là "Tinh vân Cua."
Trong thời gian đó thì ở Trung Hoa người ta đã ghi nhận
sự xuất hiện của “ngôi sao” này, và họ đặt tên là “Sao Khách.” Di tích khảo cổ
cho thấy người Maya ở Mỹ châu cũng ghi nhận hiện tượng thiên văn này.
Các nhà khoa học Âu Châu thời Trung Cổ tin tưởng ở lý
thuyết vũ trụ bất biến của Aristote hơn là tin vào chính mắt của họ. Mãi đến thời
Copernic, năm 1543, mới thuyết phục được các nhà khoa học là vũ trụ có tính vô
thường. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cười: “Các nhà thiên văn Âu châu thời Trung Cổ
tin vào lý thuyết vũ trụ bất biến của Aristote hơn là tin ở chính con mắt họ.”
Vũ trụ luôn biến chuyển, không bao giờ ngưng. Các vì
sao cũng sinh ra, tàn lụi, rồi chết đi như tất cả chúng ta, nhưng cuộc đời của
một vì sao dài tính bằng hàng tỷ năm chứ không ngắn như đời chúng ta.
Phật Giáo theo quan điểm vô thường. Như chúng ta nghĩ
đang “ngồi yên” trong thiền đường này thì thực ra chúng ta đang vận chuyển theo
trái đất chung quanh mặt trời với vận tốc 30 km một giây đồng hồ; mà mặt trời
cũng đang vận chuyển 220 km một giây quanh trung tâm của Ngân Hà; và chính
thiên hà này cũng đang tự quay với tốc độ 90 km mỗi giây ở nơi chúng ta đang sống.
Tất cả đều vận chuyển, tất cả đều thay đổi, đó cũng là
quan niệm vô thường trong Phật Giáo.
Tôn
giáo của tương lai
Ông Trịnh Xuân Thuận nhận xét, khoa học chỉ là một cửa
sổ để chúng ta nhìn thế giới. Muốn hiểu biết thực tại chúng ta phải nhìn qua
nhiều cửa khác. Phật Giáo phân biệt hai loại sự thật, tục đế là những sự thật tương đối, chân
đế là sự thật tuyệt đối. Khoa học
vẫn cố tìm đến sự thật tuyệt đối nhưng chưa tới được.
Mỗi lần nhà khoa học giải đáp được một câu hỏi thì
hàng ngàn câu hỏi khác hiện lên. Nếu dùng kinh nghiệm tâm linh đạt tới “giác ngộ,”
chúng ta có hy vọng nhìn thấy sự thật. Nếu không, vẫn là một “giai điệu huyền
bí.” Ông nghĩ rằng khoa học không thôi không thể mô tả đầy đủ sự thật; khoa học
không quá tự cao như vậy. Kinh nghiệm tâm linh là con đường khác bổ túc cho
khoa học.
Dù theo hai hệ thống lý luận khác nhau, Phật Giáo và
Khoa học Vũ trụ đã gặp gỡ trên nhiều điểm. Những nguyên lý Phật Giáo như tính
tương lập (interdépendance) của mọi sự vật, tất cả đều liên hệ với nhau và có
duyên nhân quả với nhau (mutual causality), về tính không (vacuity) và tính vô
thường (impermanence) của vạn pháp, đều tương đồng với kết luận của các nhà
nghiên cứu khoa học vũ trụ.
Tính tương lập của mọi vật trong vũ trụ giúp chúng ta suy nghĩ để
thấy hạnh phúc của mỗi người tùy thuộc vào mọi người khác và cả vạn vật chung
quanh.
Từ đó, chúng ta phát khởi lòng từ bi và ý thức phải bảo
vệ các sinh vật cũng như những vật vô sinh trong môi trường sống. Mỗi người
không thể hạnh phúc nếu người chung quanh không hạnh phúc. Đó là điều mà các
tôn giáo đều dậy chúng ta.
Cuối bài thuyết trình, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã đọc
cho thính chúng nghe một câu của Albert Einstein nói về tôn giáo thường được
trích dẫn, “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Phải là một tôn
giáo dựa trên thực chứng (based on experience) và từ bỏ tính cách giáo điều
(refuses dogmatic). Nếu có một tôn giáo đáp ứng được nhu cầu khoa học hiện đại,
thì đó là Phật Giáo (If there is any religion that would cope with modern
scientific needs it would be Buddhism).
Giới
thiệu
Trước buổi thuyết trình, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã
được một vị tăng sĩ tại Làng Mai giới thiệu với đại chúng. Ông sinh năm 1948 tại
Hà Nội, đậu Tú tài năm 1966, rồi học một năm tại l’Ecole Polytechnique de Lausanne,
Thụy Sĩ.
Sau đó ông đã theo học các đại học có tiếng tại Hoa Kỳ,
California Institute of Technology (Caltech), và Đại học Princeton, nơi đã trao
bằng Ph.D. cho ông vào năm 1974, về môn Vật lý học Vũ trụ (astrophysics), dưới
sự hướng dẫn của Giáo sư Lyman Spitzer, người sáng chế viễn vọng kính Hubble. Từ
năm 1996 ông là giáo sư Vật lý Vũ trụ tại Đại học University of Virginia tại
Charlottesville.
Ông cũng là giáo sư Đại học Paris 7, làm việc tại
Thiên văn đài Meudon, tại IAP (Institut d’astrophysique de Paris) và Trung tâm
Nghiên cứu Khoa học (CNRS) của nước Pháp. Ông đã viết trên 230 bài tường trình
khảo cứu trên đề tài chuyên khảo là sự hình thành và tiến hóa của các thiên hà
(galaxies); về sự tạo lập vũ trụ theo lý thuyết “Vụ Nổ Lớn” (Big Bang).
Một đóng góp của ông được giới khoa học thảo luận với
lòng thán phục là việc ông khám phá thiên hà “trẻ nhất” trong vũ trụ, mang ký
hiệu I Zwicky 18. Ông là một trong số người sáng lập Hội Quốc tế Khoa học và
Tôn giáo (International Society for Science and Religion).
Là một người viết rất nhiều sách phổ thông về Vật lý học
Vũ trụ; tại Đại học Virginia ông Trịnh Xuân Thuận cũng dạy một lớp mang tên là
“Vật lý học Vũ trụ cho các Thi sĩ.” Ông đã xuất bản các tác phẩm phổ biến khoa
học cho đại chúng, viết bằng tiếng Pháp với một lối văn nhuần nhã, điêu luyện,
đầy thi vị, chính xác và trong sáng dễ hiểu. Các tác phẩm của ông đã được dịch
ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, được các tổ chức văn hóa quốc tế vinh danh.
Năm 2007 ông xuất bản cuốn Les voies de la lumière, được
trao Giải Moron của cựu Tổng thống Jacques Chirac. Năm 2009, tại Hội nghị Khoa
học Ấn Độ (Indian Science Congress) kỳ thứ 99 tại Bhubaneswar, ông được UNESCO
trao tặng Giải Kalinga Năm 2012, ông được Học Viện Pháp Quốc (Institut de
France) trao Giải Hoàn Cầu (Prix Mondial) Cino Del Duca.
Đây là một giải hưởng văn chương rất uy tín, khi chúng
ta biết trong số những người được trao giải gần đây có các nhà văn Mario Vargas
Llosa (2008), Milan Kundera (2009) và Patrick Modiano (2010).
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã xuất bản các sách bằng tiếng
Pháp sau đây: La Mélodie secrète (Fayard, 1988); Un astrophysicien
(Beauchesne-Fayard, 1992), tự thuật; Le Destin de l'Univers – Le Big Bang et
après (Découvertes Gallimard, 1992); Le Chaos et l'Harmonie (Fayard, 1998);
L'Infini dans la paume de la main (Nil/Fayard 2000, cùng với Matthieu Ricard);
Origines, (Fayard, 2003); Les voies de la lumière (Fayard, 2007).
Chân
Văn (Đ. Q. Toàn) tường thuật