Thích Nhất Hạnh
Hành trì thiền quán là để đạt tới giải thoát và an lạc. Giải thoát và an lạc là hai yếu tố có liên hệ mật thiết với nhau: có giải thoát thì có an lạc, giải thoát càng lớn thì an lạc càng lớn. Nhưng giải thoát và an lạc không phải là những gì xa vời mà ta chỉ có thể đạt tới sau một thời gian thực tập lâu dài, như mười năm, hai mươi năm, hay ba mươi năm. Thực tập thiền quán, ta có thể đạt tới giải thoát và an lạc ngay trong giờ phút ta đang thực tập, dù mức độ giải thoát và an lạc ấy còn chỉ là khiêm nhượng. Tuy khiêm nhượng, những yếu tố giải thoát và an lạc ấy là nền tảng cho những giải thoát và an lạc lớn lao hơn. Tập thiền quán là tập quán sát để thấy và hiểu sâu được vào lòng sự vật. Nhờ cái thấy và cái hiểu đó mà ta đạt tới giải thoát và an lạc. Những giận hờn, lo lắng và sợ hãi của ta chẳng hạn đều đang làm cho ta khổ đau. Muốn giải thoát khỏi chúng, ta phải quán sát bản chất của chúng. Bản chất của chúng là vô minh, nghĩa là sự thiếu sáng suốt. Khi ta hiểu lầm một người bạn chẳng hạn, ta giận hờn, và vì giận hờn ta khổ đau. Quán sát thực tại cho sâu sắc, ta đánh tan được sự hiểu lầm đó, và những khổ đau của ta tan biến và ta tức khắc có an lạc.
Quán niệm trước tiên là phát khởi ý thức về đối tượng mà ta muốn quán niệm và sau đó là quán chiếu về đối tượng ấy. Quán niệm như vậy, có nghĩa là ý thức và quán chiếu. Niệm (Sati, Phạn: Smrti) có nghĩa là đi sâu vào lòng đối tượng ấy mà thẩm sát. Trong quá trình ý thức và quán chiếu ấy, dần dần ranh giới giữa chủ thể quán sát và đối tượng quán sát bị xoá bỏ, chủ thể và đối tượng trở thành nhất như. Đây là đặc điểm căn bản của thiền quán. Ta chỉ có thể hiểu được khi ta đi vào và đồng nhất ta với đối tượng. Ta không bằng lòng đứng ngoài để quán sát. Vì vậy, kinh văn luôn luôn nhắc tới quán niệm thân thể trong thân thể, quán niệm cảm thọ trong cảm thọ, quán niệm tâm ý trong tâm ý, quán niệm đối tượng tâm ý trong đối tượng tâm ý.