Thích Hạnh Bình
Duyên khởi (prat´tya-samutpŒda) là giáo lý quan trọng nhất của Phật giáo, nó là giáo lý được đức Thế Tôn chứng ngộ dưới cội cây Bồ đề (Bodhi), trước khi Ngài trở thành đấng giác ngộ, bậc Đạo sư cho chư Thiên và loài người. Có thể nói, Duyên khởi không chỉ là giáo lý chỉ rõ nguyên tắC vận hành của mọi pháp trong thế gian, từ vật lý cho đến tâm lý, không một pháp nào hình thành hay biến hoại mà ra ngoài qui luật này, nó còn là lý thuyết đầu tiên phản bác hệ thống triết học Vệ Đà của Bà la môn, phủ nhận tư tưởng sáng tạo của đấng Phạm Thiên (Brahman) để hình thành tư tưởng “Tự tác tự thọ” (mình làm mình chịu) đề cao vị trí con người, con người là chủ nhân ông cho chính mình, không ai khác hơn có thẩm quyền định đoạt cuộc sống cho mình.
Không những chỉ có thế, Thế Tôn căn cứ từ đạo lý Duyên khởi này, phát hiện vô minh (avidyŒ) là nguyên nhân sâu xa tạo thành những phiền não khổ đau cho con người, đồng thời Ngài cũng chỉ rõ rằng chỉ có vai trò trí tuệ (P. pa––ˆ, S. pra-j–a-paramitˆ) mới có thể đoạn trừ vô minh đó. Do vậy, Ngài căn cứ vào lý thuyết Duyên khởi, thiết lập 12 nhân duyên (DvŒda§Œºgaprat´tyasamutpŒda) để thuyết minh quá trình hình thành khổ đau cho con người, với chi đầu tiên là vô minh và chi cuối cùng là lão tử, là chi biểu thị trạng thái khổ đau. Nếu đứng về mặt nhân quả giải thích, nhân là vô minh quả là khổ, như vậy muốn chấm dứt quả khổ bằng cách diệt trừ cái nhân là vô minh. Thế thì bằng cách nào để diệt trừ vô minh? câu trả lời chuẩn xác là 37 phẩm trợ đạo, là phương pháp tu tập trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy. Thế nhưng trình độ hiểu biết của chúng sinh lại không đồng, vì mục đích giáo dục cho họ không thể không sử dụng pháp phương tiện nhằm giáo dục chúng sinh, do vậy hình thành tất cả Phật pháp. Như vậy, pháp Duyên khởi là giáo lý quan trọng của Phật giáo.