Hiển thị các bài đăng có nhãn langmai. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn langmai. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2013

Quán chiếu tâm ý

Tới đây ta bước sang lĩnh vực quán niệm về tâm ý. Nội dung của tâm ý là những hiện tượng tâm lý được gọi là tâm hành (cittasamskara), có khi gọi là tâm sở (mental formations). Cảm thọ cũng là tâm hành, nhưng đã được xếp riêng ra một loại, vì phạm vi của cảm thọ rất rộng. Tất cả những hiện tượng tâm ý khác như tưởng (tri giác), hành (tâm tư) và thức (nhận thức) đều là những tâm hành, đối tượng của phép quán niệm tâm ý trong tâm ý. Mỗi tông phái trong truyền thống đạo Bụt đều có bản thống kê riêng về các tâm hành. 

Tông Câu Xá liệt kê 46 loại tâm hành, Tông Thành Thật liệt kê 51 loại tâm hành. Kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm chỉ đề cập tới một số tâm hành, đó là tham, giận, lầm lạc, tán loạn, khép kín, giới hạn, không có định, không có giải thoát, hôn trầm, kích thích, nghi ngờ và những tâm hành có nội dung ngược lại là không tham, không giận, không lầm lạc, tập trung, mở rộng, vô thượng, định, giải thoát, không hôn trầm, không kích thích và không nghi ngờ, kể ra là hai mươi hai thứ. Tụng bản II có liệt kê thêm tâm hành ô nhiễm, một danh từ có tính cách phổ quát và có thể bao hàm nhiều loại tâm hành có tính cách ô nhiễm. Tụng bản III có liệt kê thêm tâm hành ái dục như một loại tâm hành có nội dung khác với tâm hành tham dục. 

Ngoài ra, các tụng bản, trong những chương nói về quán niệm, quán thọ và quán pháp cũng nói đến một số các tâm hành khác, như niệm, chán ghét, an, bất an, tinh tiến, hỷ, lạc, nhẹ nhàng, buông bỏ, v.v.. tất cả những tâm hành đó đều là đối tượng của sự quán chiếu tâm trong tâm. Phương pháp quán tâm trong tâm cũng giống hệt như phương pháp quán thân trong thân và quán thọ trong thọ, nghĩa là nhận diện được sự phát sinh, có mặt và tàn hoại của những hiện tượng tâm ý được gọi là tâm hành. Mỗi khi ngọn đèn chánh niệm và quán chiếu được đốt lên, tâm hành đang có mặt sẽ chịu ảnh hưởng tốt của ánh sáng chánh niệm và quán chiếu ấy một cách tự nhiên và tính chất cũng như phẩm chất của tâm hành ấy sẽ được thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn dù đó là một tâm hành có bản chất xây dựng hay có bản chất phá hoại an lạc và giải thoát.

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

Liệu có sự sống sau khi chết hay không

Câu trả lời này của Thầy chỉ là một lời mời, một lời đề nghị thực tập. Chúng ta cần sống đời sống của mình một cách chánh niệm hơn, với sự định tĩnh để có thể tiếp xúc một cách sâu sắc với những gì đang diễn ra trong ta và xung quanh ta.


Câu hỏi : Thưa Thầy, liệu có sự sống sau khi chết hay không ?

Thầy : Sự sống luôn có mặt đồng thời với cái chết, không có trước mà cũng không có sau. Sự sống không thể tách rời khỏi cái chết. Nơi nào có sự sống thì nơi đó có cái chết và nơi nào có cái chết thì nơi đó có sự sống. Điều này cần phải quán chiếu kỹ mới có thể hiểu được. Trong đạo Bụt, chúng ta nói về tính tương tức của vạn vật, nghĩa là không ai trong chúng ta có thể tồn tại một cách biệt lập, riêng rẽ. Chúng ta phải tương tức với những thành phần khác. Nó cũng giống như bên trái và bên phải. Nếu bên phải không có đó thì bên trái cũng không thể có mặt. Nếu không có bên trái thì cũng không có bên phải. Không thể nào có thể lấy bên trái ra khỏi bên phải hoặc lấy bên phải ra khỏi bên trái.

Chủ Nhật, 16 tháng 6, 2013

Ngồi thiền

Được ngồi yên là một đặc ân


Khi Tổng thống Nelson Mandela đến thăm nước Pháp lần đầu sau thời gian bị giam cầm, một nhà báo đã hỏi: “Ngài mong muốn điều gì nhất?” Thủ tướng Nelson Mandela trả lời: “Được ngồi yên và không phải làm gì cả. Từ khi ra khỏi tù, tôi không có được cái may mắn đó. 

Tôi quá bận, cho nên điều mà tôi mong muốn nhất là ngồi yên và không làm gì cả.” Có cơ hội được ngồi yên và thưởng thức hơi thở vào ra là điều rất tuyệt vời. Thở vào, thở ra, không có gì khó khăn. Mời bạn ngồi cho Nelson Mandela, ngồi cho tất cả những ai đang rong ruổi, cho tất cả những ai không có thì giờ trở về với chính mình để thực sự sống. Trong thời đại này, được ngồi yên là một sự xa xỉ mà cũng là điều hết sức cần thiết cho việc chữa trị và nuôi dưỡng thân tâm.

Chọn một tư thế mà bạn cảm thấy thoải mái nhất, ngồi trên tọa cụ hay trên ghế. Nếu ngồi trên ghế thì đặt cả hai lòng bàn chân xuống sàn nhà. Lưng thẳng, nhưng không cứng. Buông thư hoàn toàn, ngồi thật tự nhiên trên ghế hoặc tọa cụ, bụng mềm, miệng mỉm cười. Chú tâm hoàn toàn vào hơi thở vào, ra. Khoảng một vài phút, tâm bắt đầu bị xao lãng, khi ấy ta mỉm cười và nhẹ nhàng đưa chánh niệm trở về hơi thở. Nếu có quá nhiều suy nghĩ khởi lên trong khi ngồi thiền, bạn đừng lo lắng, bực bội, chỉ cần mỉm cười, dịu dàng kéo ý thức trở về hơi thở mỗi khi bị xao lãng. Trong một buổi ngồi thiền sẽ có nhiều lần bạn bị thất niệm, nhưng thực tập tinh tấn một thời gian số lần đó sẽ giảm đi.

Thứ Năm, 16 tháng 5, 2013

Nồi Chưa Có Vung

Thiền Sư Thích Nhất Hạnh

Chúng ta thương nhưng thực sự ít ai biết được bản chất của tình thương. Nếu biết thực tập chánh niệm và quán chiếu, thì chúng ta sẽ có cơ hội nhiều hơn để hiểu biết và chuyển hóa bản chất của tình thương trong ta.

Chúng ta ai cũng đã có thương nhưng có lẽ ít người có cơ hội nhìn lại tình thương của mình, xem thử ta đã khổ đau như thế nào trong khi thương? đã hạnh phúc như thế nào trong khi thương và đã học được gì trong quá trình thương yêu? Thật ra phần lớn trong chúng ta bận rộn rất nhiều và chưa có cơ hội để ngồi lại và làm việc ấy để có thể học được từ những kinh nghiệm thương yêu, khổ đau và hạnh phúc.

Thứ Ba, 14 tháng 5, 2013

Tịnh Độ cầm tay

Thiền Sư Thích Nhất Hạnh


Ta phải rèn luyện để cho mỗi bước ta đều về được, mỗi bước ta đều tới được. Đây là Tịnh Độ, Tịnh Độ là đây. Đúng là Tịnh Độ rồi, ta không cần phải đi kiếm nữa.

Có một cặp vợ chồng ở bên Đức qua và đang ở lại đây một tuần. Cả hai còn trẻ và đang tu theo Tịnh Độ. Họ nói với sư cô Chân Không là họ cũng thích tu Thiền nhưng họ chọn theo Tịnh Độ bởi vì: “Lỡ mình chết thì mình về Tịnh Độ liền, còn nếu mình tu Thiền thì hơi nguy vì tu Thiền mà lỡ nửa chừng bị chết thì mình không biết sẽ đi về đâu. Thành ra tu Tịnh Độ cho chắc ăn”. Sư cô Chân Không đã chỉ bày họ thấy được cái tánh bất nhị giữa Thiền và Tịnh Độ và họ đã hiểu.

Thứ Tư, 8 tháng 5, 2013

Kết thúc - KINH PHÁP HOA

Thích Nhất Hạnh

Đây là lúc chúng ta nên nói vài câu để ôn lại và kết thúc khóa học kinh Pháp Hoa.

Sở dĩ trong khi học kinh Pháp Hoa chúng ta đã có được những giờ phút an lạc, vui mừng, một phần đó cũng là nhờ chúng ta đã học qua những kinh khác. Nếu chỉ đọc riêng kinh Pháp Hoa, chưa chắc chúng ta đã thấy được cái giá trị của kinh Pháp Hoa. Vì vậy vị nào chưa được học những kinh đi trước kinh Pháp Hoa, thì hãy nên học những kinh đó. Sau khi học những kinh như Bảo tích, Bát Nhã, Hoa Nghiêm, và Duy Ma, thì quí vị sẽ thấy được cái địa vị của kinh Pháp Hoa trong khu vườn lộng lẫy của các tác phẩm Đại Thừa.
Chúng ta đã nghe và hiểu tại sao kinh Pháp Hoa được gọi là Vua của tất cả các kinh.

Đứng về phương diện luận lý thì kinh Pháp Hoa không có những nét đanh thép và hùng biện như kinh Duy Ma. Nhưng đứng về phương diện nghệ thuật thì kinh Pháp Hoa vượt hẳn kinh Duy Ma. Những nghệ thuật sắp đặt các màn, các cảnh của kinh Duy Ma, kinh Pháp Hoa thừa hưởng được hết, và còn đi xa hơn vậy nữa. Những hình ảnh được trình bày trong kinh Pháp Hoa rất giàu có, và tất cả những tư tưởng uyên áo, đặc thù của kinh Pháp Hoa đều đựợc trình bày qua hình ảnh, qua các bức tranh. Đó là một điểm rất đặc thù.
Kinh Pháp Hoa còn có tính cách thực tiễn, thỏa mãn được nhu cầu của quảng đại quần chúng, vì vậy mà giới nào cũng có thể hành trì, không phải chỉ dành cho giới trí thức. Chỉ một Phẩm Phổ Môn là đủ cho chúng ta thấy được điều đó. Giới bình dân cũng có thể hành trì được kinh Phổ Môn, và giới trí thức thượng thặng cũng hành trì được kinh Phổ Môn. Đó là một điều đặc sắc khác của kinh Pháp Hoa.

Thứ Ba, 7 tháng 5, 2013

Phẩm 28: Phổ hiền bồ tát khuyến phát - KINH PHÁP HOA

Thích Nhất Hạnh

Bây giờ chúng ta đi sang phẩm thứ 28, phẩm cuối của kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát. Chúng ta đã biết rằng địa vị của Bồ Tát Phổ Hiền (Samantabhadra Bodhisattva) ở trong kinh Hoa Nghiêm thật là vĩ đại. Có lẽ vì vậy mà tới kinh Pháp Hoa, Bồ Tát Phổ Hiền đã xuất hiện vào phẩm cuối cùng.


Bồ Tát Phổ Hiền tượng trưng cho đại hạnh. Đến lúc này Ngài mới xuất hiện và cung kính bạch với đức Thế Tôn rằng Con xin lãnh trách nhiệm bảo hộ và yểm trợ cho sự hành trì của kinh Pháp Hoa trong hiện tại và trong tương lai. Bồ Tát nói rằng ở đâu, lúc nào có người hành trì kinh Pháp Hoa thì Bồ Tát đều cỡi voi trắng sáu ngà đến để cùng với các vị đại Bồ Tát khác hiện thân, một mặt là để cúng dường Pháp Hoa, mặt khác là để bảo trợ và an ủi người đang thực tập kinh Pháp Hoa.

Thứ Hai, 6 tháng 5, 2013

Phẩm 27: Diệu trang nghiêm vương - KINH PHÁP HOA

Thích Nhất Hạnh

Chúng ta hãy đi sang phẩm thứ 27, phẩm nói về sự tích vua Diệu Trang Nghiêm. Phẩm này kể lại tiền thân của các Bồ Tát Dược Vương, Dược Thượng và Hoa Đức, là các vị có mặt trong pháp hội Pháp Hoa. Lúc đó Bụt giới thiệu một vài vị Bồ Tát và nói về tiền thân của các vị đó, để cho đại chúng biết rằng sự hành trì Pháp Hoa có thể đưa tới những kết quả khôn lường, để làm vững thêm cái tín tâm của tất cả mọi người trong pháp hội.

Đọc phẩm này chúng ta sẽ thấy rằng người tu, dầu là con trai hay con gái, đều có khả năng để trở về độ cho cha mẹ của mình. Đi tu, để cha mẹ ở nhà và đi theo con đường lý tưởng của mình, mới nhìn qua giống như mình bất hiếu với cha mẹ. Đây là một điều mà Nho giáo đã khai thác để công kích đạo Bụt trong đời nhà Lê và cuối đời nhà Trần. Nhưng thật ra, trong lịch sử của các vị Bụt và Bồ Tát, và ngay trong lịch sử của các vị xuất gia thời trước, và cả thời nay, chúng ta thấy những người xuất gia luôn luôn đem sự giải thoát, đem sự thanh tịnh, đem sự an lạc của mình về độ cho gia đình mình, độ cha, độ mẹ, độ anh chị em, độ cháu.
Ngày xưa trong thời Bụt Vân-Lôi-Âm Tú-Vương-Hoa-Trí, có một vị vua tên là Diệu Trang Nghiêm, vua có hai người con trai tên là Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn. Tuy là hoàng tử, nhưng Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn sinh vào một gia đình không có nhiều may mắn, tại vì vua cha là người không có đức tin nơi Phật Pháp. Cái may mắn của hai vị này là mẹ của Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn lại có khả năng hiểu được hai con. Cuối cùng hai người con này nhờ có cơ duyên tu học nên đã chuyển hóa và thuyết phục được vua cha đến nghe Bụt Vân-Lôi-Âm Tú-Vương-Hoa-Trí thuyết pháp. Sau khi đã giúp được vua cha, hai người con xuất gia, rốt cuộc thì vua Diệu Trang Vương cũng nhìn thấy được cái hạnh phúc và gíá trị của sự tu học, cho nên nhà vua đã nhường ngôi lại cho em rồi rủ hoàng hậu cùng mình xuất gia. Đó là chuyện ngày xưa. Giờ đây trong hội Pháp Hoa, sự có mặt của các vị Bồ Tát như Dược Vương, Dược Thượng, và Hoa Đức đã chứng tỏ rằng sự thực tập theo kinh Pháp Hoa, sự tu học theo đạo giải thoát là có thể độ được mình, độ được đời, và nhất là độ được cha mẹ, anh chị em và thân quyến của mình.

Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2013

Phẩm 26: Đà la ni - KINH PHÁP HOA

Thích Nhất Hạnh

Chúng ta biết phẩm thứ 26 được gọi là phẩm Đà-La-Ni (Dh€rani). Dh€rani có nghĩa là tổng kỳ. Đà-La-Ni Môn là một cánh cửa cũng nhắm tới việc thiết lập sự thông cảm giữa mình và các bậc đại nhân, tức là Bụt và Bồ Tát để tiếp nhận năng lượng của các vị này. Chúng ta ai cũng phải trông cậy vào thầy, vào bạn và vào những người đồng tu. Tu học, chúng ta không thể nào tu học một mình. Do đó, Đà-La-Ni Môn là cánh cửa mở ra cho ta, giúp ta tiếp nhận được năng lượng của những người lớn hơn chúng ta, đi trước chúng ta, những người có thể yểm trợ cho chúng ta.

Đà-La-Ni là những câu nói, những âm thanh phát ra trong khi thân, khẩu và ý của chúng ta hợp nhất. Khi thân, khẩu, ý hợp nhất thì tự nhiên chúng ta có sức mạnh. Chúng ta an trú trong tam muội. Và từ trạng thái tam muội đầy dẫy những năng lượng đó, những âm thanh ta phát ra đều có một tác dụng làm chuyển hóa. Nếu người kia nhiếp ba nghiệp thanh tịnh hợp nhất để nghe và để lặp lại những âm thanh đó, thì người kia sẽ tiếp nhận được năng lượng của ta. Điều này cũng không khó hiểu lắm. Tôi đang giảng Pháp Hoa. Nếu tôi giảng Pháp Hoa bằng thân, ngữ, ý hợp nhất, thanh tịnh và có định lực, thì tôi đang phát ra một nguồn năng lượng rất lớn. Nếu có một vị, hai vị, hay nhiều vị ở trong giảng đường này mà tâm, thân, và khẩu hợp nhất, an trú được trong định để tiếp nhận những điều tôi nói, thì vị đó sẽ tiếp nhận được nguồn năng lượng mầu nhiệm ấy. Nghe kinh như vậy thì mình thấy trong người mình chuyển hóa liền. Vì nghe ở đây không phải chỉ là nghe âm thanh mà qua âm thanh đó còn có năng lượng. Ngược lại nếu có người hoặc vì tối hôm qua không ngủ đủ, hoặc đang có việc buồn phiền lo lắng trong lòng, chỉ nghe bằng nửa lỗ tai, thân khẩu ý không hợp nhất, thì dù tôi có phát ra rất nhiều năng lượng, vị đó cũng chẳng tiếp nhận được gì, nghe chữ được chữ mất và sẽ không có nhiều cơ hội để có sự chuyển hóa trong lòng. Điều này giúp ta hiểu được thế nào là Đà-La-Ni Môn.

Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2013

Phẩm 25: Phổ môn - KINH PHÁP HOA

Thích Nhất Hạnh

Bây giờ chúng ta hãy đi sang phẩm thứ 25, Phẩm Phổ Môn. Phổ môn là cánh cửa phổ biến, cánh cửa mở ra cho mọi loài đi vào. Cánh cửa này không chỉ mở ra cho một hay hai, ba hạng người, mà tất cả mọi loài đều có thể đi qua cánh cửa đó để vào Phật Pháp. Tiếng Anh là Universal Door. Đây là một Phẩm được tụng đọc nhiều nhất của kinh Pháp Hoa, và được gọi là kinh Phổ Môn (Samantamukha) hay là kinh Quán Âm.

Nhìn vào Bồ Tát Quán Thế Âm (AvalokiteỐvara Bodhisattva) chúng ta thấy Bồ Tát Thường Bất Khinh, chúng ta cũng thấy Bồ Tát Dược Vương, tại vì con đường của tín nghĩa, của ân tình, của sự chung thủy cũng có mặt ở đây. Bồ Tát Quán Thế Âm đã lập nguyện là khi nào có người nhớ nghĩ tới Bồ Tát và niệm danh hiệu của Ngài, thì Ngài sẽ có mặt ngay trong giờ phút đó. Điều này có tính cách chung thủy, ân tình. Any time you need me, I will be there, đó là tiếng nói của Bồ Tát Quán Thế Âm. Những lúc anh cần đến tôi, tôi sẽ có mặt ở bên anh, nhất là lúc anh lâm vào tình trạng khó khăn, tuyệt vọng.
Quán Thế Âm có nghĩa là lắng nghe những âm thanh của cuộc đời. Chữ Quán ở đây có nghĩa là để ý tới, nhìn sâu, nhìn kỹ để có thể hiểu. Hiểu là cái bản chất làm ra sự thương yêu, có hiểu được mới thương. Nói đến Bồ Tát Quán Thế Âm, là ta nói tới sự thương yêu, Nam mô Đức Bồ Tát đại bi Quán Thế Âm. Nếu Bồ Tát Văn Thù tượng trưng cho sự hiểu biết lớn, nếu Bồ Tát Phổ Hiền tượng trưng cho hành động lớn, thì Bồ Tát Quán Thế Âm tượng trưng cho sự thương yêu lớn, cho đại từ, đại bi.

Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2013

Phẩm 24: Diệu âm bồ tát - KINH PHÁP HOA


Thích Nhất Hạnh


Diệu Âm có nghĩa là âm thanh vi diệu, âm thanh mầu nhiệm. Đây là vị Bồ Tát thứ ba được trình bày trong Hạnh môn. Vị Bồ Tát thứ nhất là Bồ Tát Thường Bất Khinh, vị thứ hai là Bồ Tát Dược Vương. Bồ Tát Thường Bất Khinh hành trì như một vị Đại sứ của Pháp Hoa, đem một thông điệp duy nhất tới cho mọi loài: Tất cả chúng sanh đều có khả năng tính giác ngộ. Bồ Tát Dược Vương tuy đi một con đường khác nhưng vẫn tiếp nối con đường của Bồ Tát Thường Bất Khinh. Con đường của Bồ Tát Dược Vương là con đường của tín nguyện, của ân nghĩa. Cái tình nghĩa của Bồ Tát Dược Vương đối với thầy của mình được biểu lộ một cách rất thắm thiết, rõ rệt trong phẩm thứ 23. Tuy nói rằng Bồ Tát Dược Vương đại diện cho con đường của ân nghĩa, của tín nguyện, nhưng đứng về phương diện thực tập thì Bồ Tát Dược Vương đã thực hiện được nhiều công trình lớn lao, tiếp nối được sự nghiệp của Bồ Tát Thường Bất Khinh.

Thứ Năm, 2 tháng 5, 2013

Phẩm 23: Dược vương bồ tát bản sự - KINH PHÁP HOA

Thích Nhất Hạnh

Với Phẩm Thường Bất Khinh, phẩm 20, chúng ta đã đi vào bình diện thứ ba là bình diện của diệu dụng, của hạnh nguyện mà chúng ta gọi là Hạnh môn, môn thứ ba sau Tích môn và Bản môn. Sang Phẩm thứ 23, trang 473, chúng ta lại trở về Hạnh môn, tức là bình diện của sự thực hiện, của hành động. Kỳ trước trong Phẩm nói về Bồ Tát Thường Bất Khinh, ta biết rằng Thường Bất Khinh là một vị đại sứ đem theo chỉ một thông điệp, đó là: Ông, bà, anh, chị, cháu đều là những người có thể thành Bụt được. Vị đại sứ đó không cần ủy nhiệm thư. Ủy nhiệm thư của Ngài là một niềm tin thật vững chãi, tin vào sự thật rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Không cần ủy nhiệm thư, không vin vào uy lực của một vị Bụt nào hết mà ruốt cục Thường Bất Khinh đã thành công, và về sau Ngài đã thành Bụt Thích Ca.

Bây giờ, trong Phẩm thứ 23 này, mình thấy một nhân vật khác, thực hiện Pháp Hoa trên một bình diện khác, bình diện của tín nguyện (devotion), con đường của đức tin, của ân nghĩa, đó là Bồ Tát Dược Vương (BhaĩỐajyar€ja Bodhisattva). Con người không có niềm tin thì không sống được, con người không có tình cảm, không có ân nghĩa cũng không phải là một con người. Không phải tu theo Phật Pháp là chỉ đi tìm kiến thức, tu Phật phải là người biết thương yêu, phải có tình nghĩa, và Dược Vương tượng trưng cho lãnh vực đó. Thường Bất Khinh có một phận sự, Dược Vương có một phận sự khác.

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013

Phẩm 22: Chúc lũy - KINH PHÁP HOA

Thích Nhất Hạnh

Phẩm 22: Chúc lũy

Phẩm thứ 22 gọi là phẩm Chúc Lũy, trang 470. Chúc lũy có nghĩa là dặn dò, di chúc và phó thác lại cái trách vụ cho một người nào đó. Trong phẩm này Bụt đưa "bàn tay đâu-la-miên" (10) của Người mà xoa đỉnh đầu của tất cả các vị Bồ Tát có mặt trong pháp hội, và nói rằng: Các vị Bồ Tát, tôi xin giao phó cho quí vị cái trách vụ truyền đạt chân lý của Pháp hoa cho nhân gian và cho tất cả các cõi. Đó là ý nghĩa của hai chữ chúc lũy. Trong phẩm này chúng ta cũng thấy rằng Bụt cám ơn Bụt, cám ơn tất cả những hóa thân của mình đã về từ vô lượng vô biên cõi, để cùng nhau mở tháp Đa Bảo. Thích Ca Mâu Ni cám ơn Thích Ca Mâu Ni, tại vì ở cõi ta bà chỉ là một hóa thân của Ngài mà thôi, và những vị Bụt ở các cõi khác cũng là những hóa thân của Bụt. Khi các hóa thân gặp nhau thì rất vui, các vị có thể cùng nhau uống trà, ăn bánh và đàm đạo.

Thứ Ba, 30 tháng 4, 2013

Phẩm 21: Thần lực của Như Lai - KINH PHÁP HOA

Thích Nhất Hạnh

Hôm nay chúng ta đi sang phẩm 21 tức là Phẩm Thần Lực của Như Lai. Phẩm này thuộc về Bản môn.

Thần lực của Như Lai là cái khả năng thực hiện của Bụt. Cố nhiên thần lực của Như Lai dựa trên căn bản thọ lượng của Như Lai. Trong một phẩm trước ta đã thấy Như Lai không thể nào được đặt trong khung không gian và thời gian, Như Lai vượt ra khỏi không gian và thời gian. Như Lai không phải là một, mà Như Lai cũng không phải là chỉ ở đây và lúc này. Như Lai ở khắp chốn, khắp thời và có hằng hà sa số phân thân. Vì vậy nếu căn cứ trên nền tảng của cái thọ lượng đó, thì thần lực của Như Lai cũng rất rộng lớn, cũng bất khả tư nghị.

Điều cần nhớ khi đọc phẩm thứ 21 này là chúng ta hãy thực tập cùng chia xẻ thọ lượng và thần lực của Như Lai. Hôm trước chúng ta có nói đến một chiếc lá mùa Thu. Nhìn vào tờ lá mùa Thu một cách sâu sắc, ta thấy nó không sanh cũng không diệt, tất cả mọi hiện tượng đều có mặt trong tờ lá, và tờ lá cũng có mặt ở trong tất cả. Thấy được thọ lượng của tờ lá, là ta có thể thấy được thần lực của tờ lá, tức là khả năng của một chiếc lá. Chúng ta cũng vậy, nếu nhìn sâu vào trong con người của chúng ta, chúng ta sẽ khám phá ra được tự tánh bất sanh bất diệt của chúng ta. Chúng ta cũng không thể nào đặt chúng ta vào trong khung khổ thời gian và không gian được. Chúng ta cũng không phải là một, chúng ta không phải chỉ được giới hạn ở trong khuôn khổ ở đây và bây giờ. Vì vậy mà chúng ta có thể chia xẻ với Bụt cái thọ lượng của Bụt, chia xẻ với Bụt cái thần lực của Bụt. — trong Bản môn, vượt khung thời gian và không gian, chúng ta sẽ tiếp xúc được với cái thọ lượng vô lượng của Bụt, với cái thần lực vô lượng của Bụt. Khi tiếp xúc được với thọ lượng và thần lực của Bụt, thì ta tiếp xúc được với cái thọ lượng và thần lực của chính chúng ta. Chúng ta thường có mặc cảm rằng mình nhỏ bé như một hạt cát. Đối với thời gian vô lượng và không gian vô biên thì chúng ta chỉ là một hạt cát, không có nghĩa gì cả. Nhưng đó là đứng về phương diện Tích môn mà nói. Đứng về phương diện Bản môn thì chúng ta cũng như Bụt, chúng ta cũng siêu thoát thời gian và không gian như Bụt. 

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2013

Phẩm 20: Bồ tát thường bất khinh - KINH PHÁP HOA

Thích Nhất Hạnh

Bây giờ chúng ta hãy đi sang phẩm thứ 20, Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh (Sad€paribhut€ Bodhisattva), trang 453. 

Phái Thiên Thai phân các phẩm của kinh Pháp Hoa ra làm hai môn, Tích môn và Bản môn, và cho rằng 14 phẩm đầu thuộc về Tích môn, và 14 phẩm sau thuộc về Bản môn.

Khi đọc kinh ta thấy tuy cái ý về Tích môn và Bản môn rất hay, nhưng phân chia như vậy không được ổn lắm. Lý do là đang đọc những phẩm có tính cách Bản môn, chúng ta đi sang những phẩm thấy như không có gì là Bản môn, mà lại có tính cách là Tích môn. Vì vậy tuy ý hay, nhưng chia ra hai phần như vậy thì không được đúng lắm. Do đó muốn dùng hai ý niệm Tích môn Bản môn thì ta phải xếp đặt lại thứ tự các phẩm trong kinh, đưa một số phẩm ra trước và một số phẩm ra sau.

Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2013

Phẩm 18: Tùy hỷ công đức | Phẩm 19: Pháp sư công đức - KINH PHÁP HOA

Thích Nhất Hạnh


Phẩm 18: Tùy hỷ công đức


Bây giờ chúng ta đi sang Phẩm thứ 18, Phẩm Tùy Hỷ Công Đức, trang 422. 

Tùy hỷ có nghĩa là vui theo, You are happy, I am happy for you. Có thể khi nghe Pháp Hoa mình chưa nắm được, chưa thấy được, nhưng có một người bạn nghe Pháp Hoa, đã nắm được, thấy được, người đó có rất nhiều hạnh phúc. Thấy người đó có hạnh phúc, mình cũng thấy có hạnh phúc theo. Cái đó gọi là tùy hỷ Chỉ cần có một giây phút thôi, một niệm của tùy hỷ thôi thì công đức và hạnh phúc cũng đã rất vĩ đại rồi.

http://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/giang-kinh/sen-no-troi-phuong-ngoai/pham-thu-muoi-tam-tuy-hy-cong-duc

Phẩm 17: Phân biệt công đức - KINH PHÁP HOA

Thích Nhất Hạnh


Hôm nay chúng ta học phẩm thứ 17 tức là Phẩm Phân biệt công đức. Công đức là tiếng ghép của công-phu và đức-hạnh. Đây là một loại năng lượng mà khi hành trì thì ta thâu thập được. Năng lượng này giữ gìn cho ta, làm cho ta có trí tuệ, có hạnh phúc, có cái nhìn sáng, có cái nghe rõ, và có sự có mặt rất sâu sắc. Công đức tiếng Phạn là PuẾya, tiếng Pháp là Mérites.
Phẩm này cho chúng ta thấy được những lợi ích, và những công đức của sự thọ trì Pháp Hoa. Thọ là tiếp nhận, trì là thực tập, hành trì. Trong phẩm này chúng ta được học rằng nếu người nào có cơ hội được nghe Pháp Hoa, và trong khi nghe Pháp Hoa mà trong lòng phát khởi một niềm vui, một niềm hoan hỷ, một niềm tin yêu thì dầu cho điều này chỉ xảy ra trong một niệm thôi, thì công đức cũng là vô lượng. Đó là một hạt giống rất tốt, và chính nhờ hạt giống tốt đó mà ta thành tựu được cái công trình vĩ đại sau này.

Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2013

Phẩm 16:Như lai thọ lượng - KINH PHÁP HOA

Thích Nhất Hạnh


Phẩm 16: Như lai thọ lượng

Chúng ta thấy giữa phẩm thứ 15 và phẩm thứ 16 có một sợi dây liên lạc. Đây là một hình thức trình bày mới của kinh điển, trong đó phẩm thứ 15 đặt câu hỏi và phẩm thứ 16 cung cấp câu trả lời. Trong các kinh khác ta thường thấy vấn đề được giải quyết trọn vẹn trong mỗi phẩm. — đây, phẩm này đặt câu hỏi và phẩm kế thì đưa ra câu trả lời. Cái hình thái trình bày này có một điều lợi là gợi ý tò mò của người đọc, muốn biết câu trả lời là như thế nào, vì câu trả lời đó đã được giữ lại, nên sự tò mò của chúng ta tăng lên. Đây là lần đầu tiên tôi thấy trong kinh có một thu xếp như vậy. Điều này làm mình liên tưởng đến những bộ tiểu thuyết kiếm hiệp của Trung hoa, ở cuối mỗi chương người ta thường viết: Muốn biết sự tình sẽ như thế nào, xin xem hồi sau phân giải.

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2013

Phẩm 15: Tùng địa dũng xuất - KINH PHÁP HOA

Thích Nhất Hạnh

Phẩm 15: Tùng địa dũng xuất

Chúng ta hãy đi sang phẩm 15, phẩm Tùng Địa Dũng Xuất, trang 365. Phẩm này cũng thuộc về thế giới của Bản môn và đáng lý phải đi sau sát phẩm Hiện Bảo Tháp. Trong phẩm này, chúng ta bắt đầu thấy được cái tính cách bất sinh bất diệt của Bụt, cái tính chất vĩnh cửu thường hằng của Bụt. Bụt của tự tính không còn nằm trong khung không gian và thời gian nữa.

Lúc bấy giờ có rất nhiều vị Bồ Tát lớn đã đến từ các tinh cầu khác, đứng dậy chắp tay làm lễ đức Thế Tôn và bạch rằng: Bây giờ chúng con xin ở lại đây để sau khi Bụt diệt độ thì chúng con sẽ tiếp tục hành trì kinh Pháp Hoa, giúp Bụt làm công việc độ thoát chúng sanh trong cõi ta bà này. Bụt mỉm cười nói: Xin cám ơn, quí vị khỏi phải nhọc lòng làm việc ấy, vì ở cõi ta bà này đã có đủ người để làm chuyện đó rồi. Quí vị ở quốc độ nào xin cứ về nơi ấy để tiếp tục hành đạo. Bụt vừa nói xong thì cõi ta bà rúng động, mặt đất nứt ra và từ dưới đất trồi lên vô số, vô lượng, vô biên các vị đại Bồ Tát.

Thứ Năm, 25 tháng 4, 2013

Phẩm 13: Trì, Phẩm 14: An lạc hạnh - KINH PHÁP HOA

Thích Nhất Hạnh

Phẩm 13: Trì

Ta đi sang phẩm thứ 13, trang 326, tức là Phẩm Trì. Trong phẩm này dì của Bụt là bà Kiều-Đàm-Di, và mẹ của La-Hầu-La, bà Da-Du-Đà-La, cả hai đều là Tì kheo ni và cả hai đều đã được Bụt thọ ký. Như vậy mục đích của phẩm này là để chứng tỏ rằng nữ giới cũng được thọ ký, và cũng có thể thành Bụt.

http://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/giang-kinh/sen-no-troi-phuong-ngoai/pham-thu-muoi-ba-tri


Phẩm 14: An lạc hạnh

Sang phẩm thứ mười bốn tức là phẩm An Lạc Hạnh, trang 340. Phẩm này là một trong những phẩm mới được thêm vào, vẫn còn dấu tích của sự kỳ thị phụ nữ, và không xuất sắc như những Phẩm khác trong kinh.