NGUYỄN
TƯỜNG BÁCH
19/03/2012
Borobudur
hiện sừng sững trong một không gian xanh thẫm như một bản đồ tâm thức cho những
ai muốn quán sát. Đền này cũng là dấu tích hàng đầu của Kim Cương thừa cho
những ai muốn hành hương chiêm bái.
Đã tham
khảo nhiều sách vở, tôi biết Borobudur là ngôi đền Phật giáo lớn nhất thế giới.
Thế nhưng xem ra không mấy ai hiểu rõ tại sao ngôi đền lớn nhất này lại nằm
trong một nước Indonesia theo Hồi giáo, lại là quốc gia Hồi giáo lớn nhất trên
toàn cầu.
Borobudur
được xây dựng khoảng cuối thế kỷ thứ VIII sau Công nguyên, nghĩa là xây dựng
cách đây hơn 1.200 năm. Phật giáo đã đến Borobudur như thế nào, điều này chưa
được giải thích chính xác, còn nằm trong bóng tối của lịch sử. Điều chắc chắn rằng
ngày nay Borobudur đã trở thành di sản văn hóa của nhân loại.
Nhưng
nó không phải là lý do quan trọng nhất thúc giục tôi đi tham bái Borobudur. Tôi
có một cái duyên kỳ lạ với Borobudur. Một ngày hè nọ tại Đức trong năm 2003,
tôi đứng nhìn một ngọn cây thông trong nhà mình và nghĩ, giá mà dưới gốc cây
này có một tượng Phật thì thật là đẹp. Vài tuần sau tôi làm quen với một thương
nhân người Đức, ông chuyên bán tượng Phật nhập khẩu từ Indonesia. Không bao lâu
sau, như tôi thầm mong, có một vị Phật tạc từ một khối đá hoa cương đến với
tôi, yên lặng ngồi thiền dưới gốc cây nọ. Tượng đẹp nhất vào đêm. Dưới ánh đèn
chiếu mờ mờ, tượng tỏa ra một tâm thức an lạc, soi sáng cả một vùng xung quanh.
Tôi nghĩ đó là tượng Phật Thích Ca và thầm cảm ơn một dịp may hiếm đó.
Về sau
tôi khám phá với chút ngỡ ngàng, đó không phải là tượng Phật Thích Ca. Tượng Phật
này có một nguồn gốc sâu xa. Các tượng Phật từ Indonesia mô phỏng các bức tượng
của ngôi đền Borobudur và tượng ngự ở nhà tôi phỏng theo tượng Phật A Di Đà, nằm
về phương Tây của đền, tay bắt ấn thiền. Kể từ đó, chúng tôi quyết đi Borobudur
để đảnh lễ Ngài và các vị khác.
Từ
Thành phố Hồ Chí Minh chúng tôi đến Jakarta - thủ đô của Indonesia. Từ Jakarta,
sau một giờ bay, đoàn đến Jogyakarta, một thành phố quan trọng của đảo Java.
Jogyakarta là điểm dừng đáng chú ý nhất của Indonesia, vì tính chất văn hóa,
tôn giáo và lịch sử của nó. Borobudur nằm cách Jogyakarta khoảng 42km về phía
Tây Bắc.
Ngôi đền
dần hiện trong ánh sáng ban mai, giữa một không gian vô cùng xanh tươi của rừng
nhiệt đới. Khách hành hương từ hướng Đông đi đến, từ xa ta thấy dường như có một
ngọn đồi đá nằm trước mặt mình. Nhìn kỹ, đó là một tòa kiến trúc cực lớn bằng
đá màu thẫm. Đây là một khối hình chóp, nền vuông. Nền vuông của đền có chiều
dài 123m mỗi phía. Đỉnh cao trung tâm của đền cũng đo được 123m. Ngôi đền này
thực sự là gì?
Ngôi đền
chính là một Man-đà-la (đàn tràng) vĩ đại, trình bày
vũ trụ quan của đạo Phật. Theo Phật giáo, vũ trụ có 3 cõi: Dục giới,
Sắc giới và Vô sắc giới. Borobudur vì thế có ba tầng kiến trúc.
Tầng thấp
nhất, nền của đền, biểu tượng Dục giới, trong đó có thế giới của loài
người chúng ta. Kiến trúc của tầng này là một dãy tường đá cao khoảng 4m, trên
đó khắc họa vô số hình ảnh của thế giới loài người, của các loài hữu tình trong
sáu nẻo tái sinh. Thế giới này chứa đầy cảm xúc vui buồn, hoạt động tạo tác lên
nó xuất phát từ lòng tham dục.
Cõi thứ
2, Sắc giới, gồm 5 tầng hình vuông, diện tích thu hẹp dần từ thấp đến
cao. Trên những tầng này ta tìm thấy các tác phẩm khắc họa về những tiền kiếp của
Phật Thích Ca. Nhưng quan trọng nhất là vô số tượng Phật, cụ thể là 505 tượng,
tạc các vị thiền Phật. Phía Đông là các vị Bất Động Phật, tay bắt ấn Xúc địa,
phía Nam là Bảo Sinh Phật với ấn Cứu độ, phía Tây là A Di Đà Phật với ấn Thiền,
phía Bắc là Bất Không Thành Tựu Phật với ấn Vô úy. Tôi nín thở trước tượng Phật
A Di Đà “nguyên mẫu” và nhớ đến gốc cây nhà mình.
Quả là
tượng “của tôi” đã được mô phỏng từ đây, nhưng ở Borobudur, bức tượng lớn hơn
và đẹp hơn nhiều. Phải nói tất cả tượng của các vị Thiền Phật đều có một hảo tướng
tuyệt diệu. Dù một trong số lớn tượng đã mất đầu, gãy tay nhưng nghệ thuật tạo
hình của tượng cho thấy một dáng vẻ vừa mềm mại vừa trang nghiêm hiếm thấy. Bàn tay
nghệ nhân nào của ngàn năm trước đã tôn tạo ra những công trình với chất lượng
và số lượng vĩ đại như thế này? Và bàn tay nào đã trộm
cắp, phá hủy các công trình đó vì ngày nay người ta chỉ còn tìm thấy khoảng 200
tượng còn nguyên vẹn?
Trên
cùng là cõi Vô sắc với 3 tầng hình tròn và 73 ngôi tháp. Trong mỗi ngôi
tháp là tượng của vị Phật Tì Lô Giá Na. Đó là vị Phật tượng trưng cho pháp giới
Hoa Tạng, tay bắt ấn Chuyển pháp luân. Khách hành hương ai cũng cố đưa tay lọt
vào lỗ hình mắt cáo của thân tháp để đụng đến Ngài vì người ta tin như thế sẽ
có may mắn. Một số các vị Phật trong các tháp tưởng như an toàn
này cũng bị phá hủy vì trộm cắp, phần lớn bị mất đầu.
Chúng
tôi đi từ thấp đến cao qua ba cõi, với tổng cộng 9 tầng. Khách đi vòng theo chiều
kim đồng hồ, chu vi mỗi tầng hẹp dần. Đến cõi Vô sắc mặt trời vừa đứng bóng.
Trung
tâm của Borobudur là một ngôi tháp lớn, tầng thứ mười của Thập địa, biểu hiện
đoạn cuối của con
đường tu
học của Đại thừa Bồ tát. Khách chỉ có thể đứng trên tầng thứ 9 trông lên đảnh lễ.
Tôi
đang đứng trên một đàn tràng vĩ đại, xung quanh là núi non chập chùng.
Ở đây ta có
thể thấy Merapi. Cách Borobudur không xa là ngọn núi lửa Merapi, một ngọn núi lửa thuộc loại nguy hiểm nhất thế giới với độ cao
2.914m.
Suốt
800 năm, Borobudur bị tro núi lửa che phủ. Trong suốt thời gian đó người ta tưởng
Borobudur chỉ là một ngọn đồi đất đen. Mãi đến năm 1814, Stamford Raffles, Thống
đốc Java mới truy tìm được dấu tích của Borobudur. Hai mươi năm sau (sau năm
1835), toàn thể tòa kiến trúc mới lộ nguyên hình để ngày nay trở thành ngôi đền
Phật giáo lớn nhất thế giới.
Nhưng tại
sao đền Borobudur được xây dựng, một ngôi đền Phật giáo trong một nước Hồi
giáo, trong một nơi mà Phật tử chỉ chiếm 2%? Đặc biệt nhất, tại sao đền
Borobudur lại là một đàn tràng mang đậm những nét của Kim Cương thừa?
Người
ta biết rằng Borobudur được xây dựng từ cuối thế kỷ thứ VIII đến những năm 50 của
thế kỷ thứ IX, trong thời đại của triều đình Shailendra. Shailendra là vua của
đảo Java theo Phật giáo. Thực ra trung tâm Phật giáo trong thời kỳ đó nằm trên
đảo Sumatra, phía Tây của Java. Thời đó có một vương triều cổ rất hùng mạnh tại
Sumatra tên gọi là Srivijaya. Đây là một đế chế thống trị đảo Sumatra, bán đảo
Malay và Nam Thái Lan từ thế kỷ thứ VII.
Đế chế
này kiểm soát cả vùng Đông Nam Á và Mã Lai. Srivijaya có những đội hải thuyền
hoạt động trên vùng biển Đông ngày nay và cả khu vực Malacca phía Tây của Mã
Lai. Đội quân của Srivijaya đã từng đến vùng Phan Rang và Nha Trang ngày nay
trong thời gian từ năm 770 - 780. Họ đến cả vùng Bắc bộ của An Nam (lúc đó còn
Bắc thuộc) khoảng năm 767. Trong đế chế Srivijaya, Phật giáo rất hưng thịnh và
thu hút nhiều Tăng sĩ. Từ Trung Quốc đã có Pháp sư Nghĩa Tịnh (635-713) đến viếng
Srivijaya trong năm 671, lưu lại tại đó 6 tháng, sau đó đi tiếp bằng đường biển
đi Ấn Độ. Theo ký sự của Pháp sư Nghĩa Tịnh, ta biết đây là một quốc gia sùng
tín đạo Phật và có liên hệ trực tiếp với Đại học Nalanda của Ấn Độ. Nghĩa Tịnh
cho hay có 1.000 nhà sư tại Bogha và tu hành vô cùng nghiêm túc.
Thế nên
ta có thể dễ dàng trả lời câu hỏi về yếu tố Kim Cương thừa của Borobudur. Đó là
Srivijaya đã du nhập Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ bằng đường biển và căn cơ người
dân ở đây phù hợp với Kim Cương thừa. Nếu ta nhớ rằng Kim Cương thừa trở nên thịnh
hành tại Ấn Độ từ khoảng thế kỷ thứ VII và chỉ khoảng trăm năm sau, Borobudur
đã được xây dựng thì có lẽ ta phải nói đảo Sumatra là trung tâm Kim Cương thừa
đầu tiên sau Ấn Độ.
Cũng
trong thời kỳ đó Kim Cương thừa được phát triển tại Tây Tạng nhưng khó quả quyết
Tây Tạng đã ảnh hưởng lên Sumatra. Ngược lại, Phật giáo tại Srivijaya đã thu
hút Nghĩa Tịnh đến Sumatra nhiều lần, năm 671 và 687. Khoảng thế kỷ XI, nhà sư
học giả xứ Bengal tên là Atisha cũng đã đến Sumatra trước khi đến Tây Tạng.
Atisha về sau đóng một vai trò quyết định trong Kim Cương thừa tại Tây Tạng.
Vì những
lẽ trên, ta có thể nói đền Borobudur là dấu tích sớm nhất và cũng là vĩ đại
nhất của lịch sử Kim Cương thừa. Tại Ấn Độ và Tây Tạng (Trung Quốc), quê
hương của Kim Cương thừa, ta không tìm thấy một kiến trúc nào tương tự, dù nhỏ
hơn hẳn cũng không. Ngày nay, đền Borobudur nằm trong một nước mà người dân hầu
như không ai biết đến Kim Cương thừa, đó là một thực tế vô cùng kỳ lạ của lịch
sử.
Có chắc
là không ai biết đến Kim Cương thừa trong dòng người lên viếng Borobudur, trong
đó có hàng ngàn học sinh vui nhộn? Buổi chiều, chúng tôi lên đỉnh
đền một lần nữa, hy vọng đón xem cảnh mặt trời lặn. Đỉnh đền là cõi Vô sắc giới,
nơi mà anh hướng dẫn viên người Indonesia gọi là tượng trưng cho “Niết bàn”.
Anh hiểu
sai vũ trụ quan của đạo Phật rồi, anh càng không hiểu Kim Cương thừa.
Nhưng
thôi, chúng tôi thắp nhang tụng niệm trước đỉnh tháp. Bài tụng chưa xong thì một
cơn mưa nhiệt đới đổ nước như trút. Cảnh mặt trời lặn của tôi đã chìm trong mây
đen. Thay vào đó là sấm sét và nước mưa ướt sũng. Sét đánh sáng rực giữa bầu trời
và chúng tôi đang ở điểm cao nhất. Thế nhưng tôi không hề sợ và cảm thấy nước
mưa rất mát. Có ai được cơ may cầu nguyện ngay trong đàn tràng vĩ đại này? Phải
chăng ấn Vô úy đang tác động lên tôi? Về sau, trong xe, anh hướng dẫn
viên cho hay, theo quan niệm tại địa phương, mưa to lúc hành lễ chứng tỏ chư Phật
đã “nghe” lời cầu nguyện. Có thể anh không hiểu Kim Cương thừa, nhưng anh có một
lòng tin, thế là đủ!
Tính chất
vĩ đại của đền Borobudur làm lu mờ tất cả những điều khác tại chuyến đi. Thế
nhưng tôi không thể không nhắc đến đền Mendut, cách
đó 4km. Đây chỉ là một ngôi đền tí hon, được xây cùng thời với Borobudur. Tuy
nhỏ nhưng Mendut chứa 3 tượng Phật bằng đá tuyệt đẹp, trình bày Phật Di Lặc, Bồ
tát Quán Thế Âm và vị thứ ba là Kim Cương thủ. Đây là ba tượng đá nổi tiếng thế
giới về sự hoàn hảo. Cả ba đều có thế ngồi rất lạ, thể hiện quan niệm “từ động
vào định” của Kim Cương thừa. Cứ mỗi kỳ trăng tròn trong tháng 5, vào dịp
Vesak, các nhà sư cử hành lễ hội Borobudur bằng cách bắt đầu cầu nguyện tại đền
Mendut và sau đó đi bộ đến Borobudur.
Borobudur
hiện sừng sững trong một không gian xanh thẫm như một bản đồ tâm thức cho những
ai muốn quán sát. Đền này cũng là dấu tích hàng đầu của Kim Cương thừa cho
những ai muốn hành hương chiêm bái. Có lẽ Borobudur còn tồn tại lâu với thời
gian. Nhưng đền Mendut đã bị hủy hoại phần mái, nước mưa sắp phá hủy các tượng
Phật nếu không ai tu bổ.
Theo thời gian, tất cả sẽ bị hoại diệt, đó là điều duy nhất chắc chắn. Đế chế
Srivijaya cũng đã suy tàn trong thế kỷ thứ XIII. Tôi nhớ lại tượng Phật “của
mình” với lòng hoài cảm. Khu vườn xưa nay không còn của tôi, ngọn cây nọ đã bị
đốn bỏ. Và tượng Phật A Di Đà? Tượng vẫn đầy hảo tướng nguyên vẹn nhưng nay đã
được thờ trong một ngôi vườn nghiêm trang khác.
http://www.dulichtamlinh.net/NewsDetail3.aspx?id=364&cid=174