Hiển thị các bài đăng có nhãn diatangkinhvietnam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn diatangkinhvietnam. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 21 tháng 11, 2012

Học theo hạnh của biển cả

Người khôn ngoan là người luôn thấy được cái hay cái đẹp của mọi thứ để mà học tập. Trên đời này, mọi thứ đều có những cái hay để chúng ta học theo. Biển cả cũng vậy, nó có nhiều đặc tính quý báu mà chúng ta cần phải học. Những đặc tính đó là gì? 


Đặc tính thứ nhất là biển cả xuôi dần, nghiêng dần và không có vực thẳm thình lình. 

Chúng ta học theo hạnh này bằng cách lần lượt học các pháp từ cạn đến sâu. Có những người chưa chi đã muốn học những pháp rất cao, trong khi những pháp căn bản thì chưa hề biết đến. Trừ chư Phật, Bồ-tát thị hiện nên có thể học thẳng những pháp cao mà không có gì trở ngại, còn phàm phu chúng ta thì tốt hơn hết là phải đi theo thứ tự từ thấp lên cao, từ cạn đến sâu. Chúng ta cần phải học và thực hành những pháp nền tảng trước, rồi mới học và thực hành những pháp cao hơn. 

Thứ Tư, 14 tháng 11, 2012

Vị đại sư xấu xí thiên tài lừng lẫy Trung Quốc


Từ nhỏ đã bị bạn bè và ngay cả sư phụ coi thường vì tướng mạo xấu xí, thế nhưng với tài năng thiên bẩm và trí nhớ siêu việt, sư Đạo An đã trở thành nhà Phật học đầu tiên của Trung Quốc thời cổ đại. Cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà người đời sau lại dành cho vị đại sư xấu xí này nhiều lời ca ngợi đến như vậy…

Tôn Sư Đạo An

1. Sư Đạo An sinh vào khoảng năm 312 dưới thời Hoài Đế nhà Đông Tấn trong một gia đình Nho giáo sinh sống tại Thường Sơn, huyện Phù Liễu, nay thuộc huyện Hà Bắc của Trung Quốc. Do khi đó thời thế loạn lạc, cha mẹ đều mất sớm nên từ nhỏ, Đạo An được một người anh họ ngoại nhận về nuôi.

Thứ Ba, 30 tháng 10, 2012

Đạo Phật thấy vũ trụ như thế nào?

Các triết gia Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại đều có nhận thức của họ về vũ trụ. Thí dụ, Anaximander, triết gia Hy Lạp vào thế kỷ thứ V trước Tây lịch, cho rằng “có vô số thế giới” xuất hiện và biến tan từ một chất liệu nhất định.

Các triết gia Hy Lạp Luccippus và Domocrite (thế kỷ thứ V trước Tây lịch) cho rằng vũ trụ là một khoảng hư không vô tận, trong đó có vô số thế giới vận động, xuất hiện và tan biến; những thế giới đó đều cấu tạo bằng nguyên tử nhiều vô lượng.

Ánh sáng từ âm thanh (hay ẩn ý của mật chú)



Trong những hình ảnh cũ, tôi còn nhớ buổi đi học lần đầu. Hình như hôm đó vào buổi sáng, cha tôi dắt tôi đi bộ ra đường cái, được một quãng là đến khu đất ruộng, rẽ vào một trong những con đường đất chia các mảnh ruộng ra từng ô vuông, đi một chút nữa đã đến nhà bác Nghĩa (tôi vẫn còn nhớ tên bác).

Chủ Nhật, 21 tháng 10, 2012

Thiền Đạo (The way of zen)

Tác giả: Alan W.Watts


Dịch giả: Thích nữ Trí Hải

1. NGUỒN GỐC CỦA THIỀN

Người ta không thể diễn tả vẻ tráng lệ của hoàng hôn cho một người mù bẩm sinh. Cũng thế, bậc Thánh không thể mô tả trí tuệ thân chứng cho phàm phu tục tử. Nếu Ðạo nằm trong giáo lý, thì bất cứ ai cũng thành Thánh được, sau khi đọc Chí Tôn Ca hay Ba Tạng Kinh điển. Nhưng sự thực là, người ta có thể suốt đời nghiên cứu kinh điển mà không minh triết hơn chút nào. Tìm giác ngộ trong danh từ, tư tưởng thì chẳng khác nào đói mà chỉ ngồi đọc đi đọc lại tấm thực đơn.


Thứ Ba, 16 tháng 10, 2012

THỰC TẬP NHẪN NHỤC


Chúng ta đã nghe Hòa thượng Huyền Diệu và bà Kita Gawa nói chuyện, gợi cho chúng ta suy nghĩ về sức mạnh của tâm linh và sức mạnh của lòng từ. Bà Kita Gawa là phụ nữ Nhật có sức mạnh phi thường đã làm cho nam giới phải kính nể, cho nên bà đã được mời làm cố vấn cho Liên Hiệp Quốc về các vấn đề phức tạp trên thế giới.

Tụng Kinh - Trì chú - Niệm Phật



I. BÀI HỌC

1. Định Nghĩa

- Tụng kinh: là đọc thành tiếng và có âm điệu hoặc đọc thầm những lời Phật dạy một cách thành kính.
- Trì chú: trì là nắm giữ, nhiếp niệm. Chú là lời bí mật của chư Phật. Trì chú là nhiếp tâm vào những bài thần chú.
- Niệm Phật: Niệm là nhớ nghĩ. Niệm Phật là nhớ nghĩ danh hiệu, hình ảnh và đức hạnh của chư Phật.

Thứ Hai, 15 tháng 10, 2012

Bí quyết để trở thành người hạnh phúc nhất thế giới


Các nhà thần kinh học của Mỹ, sau nhiều cuộc thử nghiệm, đã tìm ra được người hạnh phúc nhất trên thế giới. Đó chính là một nhà nghiên cứu về tế bào di truyền đã từ bỏ cuộc sống hiện đại, phù hoa để lên đương tới Tây Tạng, trở thành nhà tu hành Phật giáo và là thị giả của Đức Đạt Lai Lạt Ma.


Làm thế nào để tất cả chúng ta có được hạnh phúc? Ông cho rằng, chúng ta có thể huấn luyện tâm trí mình theo những thói quen đem lại hạnh phúc để có được cảm giác thanh thản và mãn nguyện thật sự.

Thứ Hai, 10 tháng 9, 2012

Tìm hiểu về sám hối



Viết bởi Hướng Thiên 


1. Giới thiệu

Kinh Đại Bát-niết-bàn có nói: “Thế gian có hai hạng người dũng mãnh, thứ nhất là người không làm ác, thứ hai là người đã làm ác mà biết hối lỗi”. Sống trên cuộc đời này mấy ai không phạm phải điều sai quấy, điều quan trọng là phải nhận thức và sửa đổi những lỗi lầm mình đã phạm, có như thế thì cuộc sống mới càng ngày càng tốt đẹp hơn. Đối với người xuất gia, muốn thực hiện con đường giải thoát thì phải hộ trì Thánh giới đã thọ không để cho bị hủy phạm, nếu Thánh giới bị hủy phạm khiến cho giới thể bị ô nhiễm thì cần phải làm cho thanh tịnh trở lại.

Lại nữa, các hành vi thiện ác của chúng ta vốn không mất đi mà nó chỉ chuyển sang một dạng tồn tại khác dưới hình thức những năng lực tiềm tàng gọi là nghiệp. Nghiệp ấy Đức Phật dạy: “Một khi nghiệp đã được tạo thì trăm ngàn kiếp không mất đi, chỉ chờ điều kiện thuận tiện là phát hiện thành quả”. Vì nghiệp là năng lực dẫn sanh quả báo, cho nên người học Phật cần phải biết cải thiện nghiệp của mình. Xuất phát từ hai lý do hộ trì Thánh giới và tiêu trừ nghiệp này mà Đức Phật thiết lập phương pháp sám hối.

2. Định Nghĩa

Sám hối có nghĩa là ăn năn thừa nhận lỗi lầm của mình và thề không tái phạm nữa. Trong Phật Giáo, sám hối có một ý nghĩa tu tập đặc biệt quan trọng và tuyệt nhiên không mang bóng dáng thần quyền như nhiều người lầm tưởng. Hơn nữa, bên cạnh ý nghĩa tu tập thuộc lĩnh vực tâm linh, sám hối còn có ý nghĩa chữa trị của lãnh vực tâm lý.

Về mặt từ nguyên, sám hối vốn có nghĩa là thuyết tội (Skt: āpatti-deśanā) hoặc thuyết ác (Skt: pāpa-deśanā[7]), tức là nói lên những lỗi lầm hay việc làm phi pháp của mình, trong Luật tạng thường gọi là phát lộ. Khi phân tích từ “sám hối”, ngài Nghĩa Tịnh nói rằng “sám” là lược âm của tiếng Phạn kṣama, đúng âm là sám-ma, nghĩa là khoan thứ hoặc xin được khoan thứ; “hối” là tiếng thuần Hán, nói đủ là hối quá, là dịch nghĩa từ āpatti-deśanā[8] của tiếng Phạn. Như vậy, hai chữ “sám” và “hối” không đồng nghĩa với nhau mà chỉ có mối liên hệ gần nhau thôi. Có người nói “hối” là dịch nghĩa của chữ sám-ma, điều đó không hợp với sự phân tích trên.

3. Phân Loại

Sám hối ngoài việc được áp dụng như biện pháp xử trị những hành vi trái phạm giới luật để duy trì tính hòa hợp và thanh tịnh của Tăng còn là một phương pháp tu tập cho cả hai giới xuất gia và tại gia. Sám hối vì thế đã trở thành một khía cạnh quan trọng không thể thiếu trong Phật Giáo. Vì tính chất quan trọng đó cho nên các nhà giảng giải Kinh Luật thường phân sám hối thành nhiều loại để vấn đề dễ hiển bày. Sau đây là một vài cách phân loại thường gặp cùng với khả năng diệt tội của nó.
· Chế giáo sám và hóa giáo sám

Theo sự phán giáo của các nhà Luật sư, quá trình giáo hóa của đức Thế Tôn được chia thành hai phần: chế giáo và hóa giáo. Chế giáo là tùy trường hợp phạm tội mà nói pháp, tức là chế giới, hay là Luật tạng. Hóa giáo là vì tất cả chúng sanh mà phân biệt giảng thuyết về các pháp như nhân quả, lý sự..., đó là Kinh tạng. Căn cứ vào sự phán giáo này, các Luật sư phân sám hối thành hai loại: chế giáo sám và hóa giáo sám (còn gọi là chế giáo nghi và hóa giáo nghi).

Chế giáo sám là phương pháp sám hối dùng cho trường hợp phạm giới, đó là các phương pháp xử trị đã được quy định trong giới bổn của người xuất gia, loại này chỉ giới hạn trong Tăng. Chế giáo sám bao gồm 3 loại: 1/ Chúng pháp sám: là sám hối tội lỗi của mình trước Tăng, Tăng ở đây gồm 4 vị hoặc 20 vị tùy theo trường hợp mà luật quy định rõ. 2/ Đối thủ sám: là đối trước một vị đồng tu mà phát lộ lỗi lầm của mình, như trường hợp phạm ba-la-đề-đề-xá-ni. 3/ Tâm niệm sám: tức phạm những lỗi nhỏ nhặt chỉ cần tự hối trong tâm là được, như trường hợp phạm tội đột-kiết-la.

Hóa giáo sám là sám hối về các hành vi ác chung chung, tức là sám hối về bất thiện nghiệp đạo, áp dụng cho cả xuất gia và tại gia. Hóa giáo sám thì có nhiều loại, đó là các phương pháp sám hối đã được Kinh hoặc Luận đề cập đến với mục đích giúp hành giả dần dần tiêu trừ các pháp chướng đạo; bao gồm tụng kinh, bái sám, quán tưởng... Như kinh Phật Danh dạy phương pháp sám hối 3 chướng là phiền não chướng, nghiệp chướng và quả báo chướng; Kinh Hoa Nghiêm nói đến sám hối 4 chướng là hoặc chướng, nghiệp chướng, báo chướng và kiến chướng; Luận Phật Tính cũng nói đến sám hối 4 loại chướng ngại Phật đạo là chán ghét đại thừa, chấp trước thân kiến, sợ sanh tử và không ưa thích việc lợi tha; Kinh Đại Thừa Tam Tụ nói đến sám hối 5 chướng là nghiệp chướng, phiền não chướng, chúng sanh chướng, pháp chướng, chuyển hậu thế chướng.

Trong hai cách sám hối này thì chế giáo sám là sám hối theo Luật tạng, hóa giáo sám là sám hối theo Kinh Luận. Sám hối theo Luật tạng là sám hối tội phá giới, sám hối theo Kinh Luận là sám hối hành vi vi phạm nghiệp đạo. Vì thế người xuất gia khi phạm giới thì cần phải thực hiện cả hai cách sám này, đặc biệt là bắt buộc phải thực hành chế giáo sám hối, có sám hối theo Luật thì giới thể mới trở lại thanh tịnh, mới hòa hợp với Tăng. Riêng người tại gia thì chỉ áp dụng hóa giáo sám. Bởi vì, người tại gia dù có thọ giới như ngũ giới hoặc thập thiện nhưng đó là những giới có tính cách học tập, khuyến thiện chứ không bắt buộc và không có tính quy định của tập thể. Khi một người tại gia phạm phải điều ác, dù điều đó đã được kể đến trong giới cấm mà họ đã thọ, thì việc ấy không thể bị xem là phạm giới cần phải đưa ra trước Tăng hay một hội đồng giám luật nào để xử trị, họ chỉ vi phạm nghiệp đạo, chỉ cần sám hối để tiêu nghiệp.
Ba loại sám hối

Theo Kim Quang Minh Kinh Văn Cú, Tứ Phần Luật Hành Sự Sao Tư Trì Ký, Thiên Thai Tứ Giáo Nghi Tập Chú, có 3 loại sám hối là: tác pháp sám hối, thủ tướng sám hối và vô sanh sám hối. 1/ Tác pháp sám hối: là phương pháp sám hối vận dụng cả thân, miệng, ý. Thực hành sám pháp này thì thân phải lễ bái, miệng phải tụng đọc, ý phải tư duy. 2/ Thủ tướng sám hối: là quán tưởng tướng hảo của chư Phât, Bồ Tát mà diệt được tội. 3/ Vô sanh sám hối: lá quán hết thảy các pháp vốn không, tội từ tâm khởi, tâm ấy đã không nên tánh tội không có, tánh tội không nên tội cũng không.

Theo Kim Quang Minh Kinh Văn Cú và Thiên Thai Bồ Tát Giới Sớ thì tác pháp sám hối thuộc về phạm trù giới, chỉ diệt già tội mà không diệt được tánh tội[9]. Thủ tướng sám hối thuộc về phạm trù định, diệt được cả già tội và tánh tội. Vô sanh sám hối thuộc về phạm trù tuệ, có khả năng diệt trừ vô minh.
Sự sám và lý sám

Sám hối còn được nhìn từ hai mặt sự-lý mà phân thành sự sám và lý sám. Sự sám là nói tất cả nghi thức sám hối của chế giáo cũng như hóa giáo, tức là sám hối có biểu hiện hình thức bên ngoài. Lý sám cao hơn một bậc, là dùng trí quán chiếu thật tướng của các pháp mà diệt trừ được tội. Sự sám tương đương với tác pháp sám và thủ tướng sám, lý sám tương đương với vô sanh sám. Theo Tứ Phần Luật San Bổ Tùy Cơ Yết Ma thì sự sám chỉ nhiếp phục nghiệp cho dễ trừ, chỉ có lý sám mới đủ sức diệt nghiệp[10].

4. Tính thực tiễn của sám hối

Nói đến tính thực tiễn của cái gì là nói đến những lợi ích thiết thực mà nó đem lại. Bất kỳ một pháp gì tồn tại đều có tác dụng của nó, cũng như một người đi thì phải có đi đâu, làm thì phải có làm gì. Sám hối cũng vậy, cũmg mang đến những lợi ích thiết thực cho người thực hành. Vậy sám hối có những ích lợi gì? Trước hết, sám hối có tác dụng tích cực như là một phương pháp tu tập xét trên bình diện tâm linh. Thứ đến, sám hối có tác dụng chữa trị thuộc lãnh vực tâm lý.
· Về mặt tâm linh, sám hối đóng vai trò như một pháp môn tu tập giúp hành giả đạt được những bước tiến trên con đường giác ngộ giải thoát.

Ích lợi đầu tiên ở trong lĩnh vực tu tập mà mọi người đều thấy là khôi phục giới thể thanh tịnh cho người phạm giới. Nếu một người phạm các điều khoản của giới mà không phát lộ sám hối trước Tăng, tức là sám hối theo chế giáo nghi, thì giới thể bị ô nhiễm. Kinh nói giới có thanh tịnh thì mới phát sinh thiền định, có thiền định mới có trí tuệ. Giới thể này là năng lực phòng phi chỉ ác được phát sinh trong quá trình cầu thọ giới, nó có chức năng ngăn không cho các pháp hữu lậu xâm nhập vào tâm. Chỉ có sám hối mới có khả năng khiến cho giới thể đã bị nhiễm ô trở lại thanh tịnh.

Lợi ích thứ hai trong lãnh vực tâm linh là tiêu trừ nghiệp. Xét hành vi phạm giới có hai yếu tố, đó là phạm giới đối với Tăng - tức là đi ngược lại với những giao ước sống chung của Tăng, và phạm nghiệp đạo. Yếu tố phạm giới thì trên đã nói, nó chỉ giới hạn ở hàng ngũ xuất gia. Yếu tố phạm nghiệp đạo thì bao quát cả Tăng lẫn Tục. Sám hối theo chế giáo nghi thì giới thể được thanh tịnh trở lại, thế nhưng nghiệp đạo đã phạm vẫn không mất, bởi vì chế giáo căn cứ trên tướng. Chỉ có sám hối theo hóa giáo nghi thì nghiệp đã tạo mới được tiêu trừ do hóa giáo thuộc phạm trù tánh. Vì vậy, thực hành các phương pháp sám hối theo Kinh Luận (hóa giáo nghi) như tụng kinh, bái sám, quán tưởng sẽ giúp hành giả dần dần tịnh hóa nghiệp của mình.

Ngoài ra, các phương pháp sám hối mà Đức Phật nói trong Kinh còn là thời khóa tu tập để tăng cường giới định tuệ. Trong khi tu pháp sám hối, thân thì lễ bái, miệng thì đọc tụng, đó là tương đương với giới (tác pháp sám hối); tâm ý chuyên chú vào đối tượng như Phật, Bồ tát, đó là tương đương với định (thủ tướng sám hối); nếu hành giả dùng tâm ý quán chiếu thực tánh của các pháp để diệt trừ vô minh thì sám hối ấy tương đương với tuệ (vô sanh sám hối). Sám hối vì thế trở thành trợ duyên cho 3 môn học giới định tuệ tăng trưởng.
· Về mặt tâm lý, sám hối theo Luật tạng (chế giáo sám) có công năng như một biện pháp chữa trị, nuôi dưỡng một tâm hồn thanh cao.

Với đạo Phật, người sám hối là người đang cần sự giúp đỡ của Tăng chứ không phải thú nhận tội lỗi để chịu tội hay được tha thứ (xá tội). Thông thường trong các tôn giáo khác, khi nói đến sám hối thì mọi người đều nghĩ ngay đến ý niệm “tội” như là hành vi không vâng lời đối với đấng tối cao như Chúa, Thượng Đế...; thế nhưng “tội” trong đạo Phật không phải như vậy[11]. Phật Giáo không quan niệm có một đấng toàn năng với quyền uy tuyệt đối và một chiều như là đấng “Sáng tạo” để ban phước dáng tội cho con người cho nên không có khái niệm “tội” như là hành vi trái phạm đối với vị ấy. Chữ “tội” mà chúng ta đề cập đến ở trong phần sám hối này, theo quan niệm của Phật giáo, chỉ có nghĩa là những hành vi xấu ác, tính xấu ác này là dựa trên tính chất căn bản của nghiệp được tạo. Chữ “tội” tiếng Phạn là āpatti, có nghĩa là “cái bị rơi”, do động từ “pat” (rơi, đi xuống) mà thành. Như thế, người phạm tội là người không theo kịp mọi người, bị rơi từ chỗ cao xuống chỗ thấp do phạm phải các điều xấu ác. Cũng như trong một lớp học, phần lớn học sinh theo kịp bài nên cuối năm được lên lớp, thế nhưng bên cạnh đó vẫn có một số ít không theo kịp nên phải lưu ban hoặc bỏ học. Đối với những người “bị rơi” như thế - tức là những người yếu đuối, sự giúp đỡ từ những người “không bị rơi” là điều rất cần thiết, cho nên họ phát lộ lỗi lầm của mình trước Tăng (những người không bị rơi) để cầu xin năng lực nâng đỡ. Thông qua năng lực nâng đỡ từ những lời giáo giới của Tăng và sự thánh thiện phát ra[12] từ bản thân Tăng, thiện pháp (ý chí làm lành lánh dữ) ở trong con người lầm lỗi ấy sẽ tăng thêm. Đây chính là một ý nghĩa rất quan trọng mang tính chữa trị tâm lý của việc sám hối.

Lại nữa, xét về tâm lý, người phạm tội luôn mang cảm giác bứt rứt, hối hận - gọi là cảm giác tội lỗi - khiến cho tâm họ không được an ổn (đây chính là lý do mà Luật nói những người phạm giới nặng mà không phát lộ sám hối thì không nhập định được). Hơn nữa, những cảm giác xấu ấy nếu trải qua lâu ngày mà không được giải tỏa sẽ chuyển thành trạng thái mặc cảm dưới dạng vô thức và tiếp tục ảnh hưởng đến tâm thái của người phạm tội. Theo Phân tâm học thì chính mặc cảm vô thức này góp phần đưa đến những cảm xúc và hành xử có tính bất bình thường (dysfunctional feelings and behaviors) cần được chữa trị. Trong chừng mực nào đó, sám hối là giải tỏa cái tâm lý đang bị dồn nén ấy (phát lộ hay thuyết tội). Cũng như một người khi có điều muốn nói mà chưa nói ra được do vì e ngại hoặc không có đối tượng để tỏ bày thì trong lòng cứ thấy bồn chồn, tâm trạng cứ như là “ngồi trên lửa”.

Cuối cùng, sám hối là dùng hai tâm sở thiện tàm và quý để đối trị hai tâm sở bất thiện vô tàm và vô quý, tức là lợi dụng tâm lý xấu hổ để khống chế những hành vi xấu ác, đưa hành giả tới chỗ toàn thiện.

5. Kết luận

Đến đây, hẳn chúng ta thắc mắc một điều: liệu sám hối rồi tội có hết không? Để trả lời nghi vấn này chúng ta phải dựa vào tam tạng giáo điển. Nếu xét về yếu tố phạm giới, các bộ Luật đều khẳng định sám hối như pháp thì giới thể trở lại thanh tịnh như cũ. Riêng yếu tố phạm nghiệp đạo thì rõ ràng là không đơn giản. Các Kinh thường nói sám hối thì nghiệp được tiêu trừ, thế nhưng không phải sám hối là nghiệp mất hết không còn phải chịu quả báo. Ngài Long Thọ khẳng định trong Thập Trụ Tỳ-bà-sa luận rằng: “Ta không nói sám hối thì nghiệp tội diệt hết không còn quả báo; ta chỉ nói sám hối thì tội giảm nhẹ, thời gian lãnh thọ ngắn hơn”[13].

Nói tóm lại, sám hối là một phương pháp gội rửa tâm có vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. Nhìn từ khía cạnh chế giáo, sám hối mang tính cưỡng bức và thuộc tác trì môn, mục đích của nó là đem lại sự thanh tịnh và hòa hợp trong Tăng theo tinh thần quy ước của Giới Luật. Người phạm giới sau khi sám hối đúng pháp theo Luật thì giới thể trở lại thanh tịnh như cũ, tất nhiên chỉ với những tội Luật cho sám hối[14]. Lại nữa, bên cạnh yếu tố phạm giới còn có yếu tố phạm nghiệp đạo, phạm nghiệp đạo thì không thể sám hối theo Luật mà hết được, phải sám hối theo Kinh hoặc Luận. Nhìn từ phương diện Kinh Luận, tức là khía cạnh hóa giáo, sám hối mang tính tự nguyện và dựa trên tính chất căn bản của nghiệp đạo, mục đích của nó là tiêu trừ nghiệp, giúp hành giả thăng tiến trên con đường giải thoát.
-------------------------------
[7] John Bowker, The oxford dictionary of world religions, Oxford University Press, 1997, trang 230.[8] Chữ Hán: 阿鉢底提舍那 (A-bát-để-đề-xá-na): Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ-nại-da, q15 (Đại 23, trang 0706a).[9] Tánh tội: là các hành vi xấu ác thuộc về bản chất, như các hành vi giết người, dâm dục, trộm cướp, nói dối thì dù ở hoàn cảnh nào cũng bị xem là ác. Trái lại, có một số hành vi vốn không nhất định là xấu hay tốt, xấu hay tốt là tùy theo quan niệm, tập tục hay quy ước của mỗi cộng đồng mà thành, như uống rượu chẳng hạn; những hành vi như thế một khi bị xem là xấu ác thì được gọi là già tội.[10] Tứ Phần Luật San Bổ Tùy Cơ Yết Ma, Sám Lục Tụ Pháp thiên (Đại 40, trang 0506c).[11] Với Do Thái giáo, tội là sự bỏ qua hoặc không vâng theo ý muốn của Thượng Đế (Yahweh)(sin is passing over or rejection of the will of God). Với Cơ-đốc giáo (Christianity), tội nói chung là những gì đã tách con người ra khỏi Thượng đế, trong đó tội tổ tông (original sin) là trường hợp điển hình; ngoài ra, không tin Chúa Jesus cũng được xem là một tội nặng. Với Hồi giáo, tội chủ yếu là sự làm trái ý Thượng đế (Allah). Nói chung, trong các tôn giáo Nhất thần (Monotheism) thì tội là vấn đề liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vị Thần linh được tin tưởng.[12] Sức mạnh thánh thiện phát ra từ những vị có giới đức này tạo thành một lực trường (field of force) có khả năng ảnh hưởng đến những người khác, cũng giống như khái niệm từ trường (magnetic field) trong Vật lý học.[13] Thập trụ tỳ-bà-sa luận, phẩm Phân Biệt Công Đức, q6 (Đại 26, số 1521, trang 48c).[14] Luật quy định, ngoại trừ 4 pháp ba-la-di, tất cả các hành vi phạm giới khác đều được phép sám hối.

Hướng Thiên
http://daitangkinhvietnam.org/nghien-cuu-phat-hoc/phat-hoc-can-ban/3237-tim-hieu-ve-sam-hoi.html

Thứ Ba, 14 tháng 8, 2012

VÔ NGÃ LÀ NIẾT BÀN


Thích Thiện Siêu                                                                                    
            79.2

Đạo Phật như một vườn hoa, mà người xuất gia là người giữ gìn, chăm sóc, cần phải biết rõ từng bông hoa... Người xuất gia là chủ vườn, chứ không phải là người ngoại cuộc, chỉ cỡi ngựa xem hoa đã vội phê phán bình phẩm đủ cách. Phật tử chúng ta là những người giữ gìn gia tài Phật pháp, phải có thái độ như thế nào đối với những người cỡi ngựa xem hoa đó? Không lẽ chỉ hùa theo sự khen chê của họ?

Hạt giống của Chánh Ngữ


Thích Nhất Hạnh

Không thể hiểu được chánh kiến, chánh tư duy và chánh ngữ nếu không biết rằng tất cả chúng ta đều có hạt giống của những chánh đạo này trong tâm thức. Hạt giống của ngôn ngữ căn cứ trên tưởng. Tưởng là tri giác.