Hiển thị các bài đăng có nhãn Lumbini. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lumbini. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 1 tháng 1, 2006

Chúng tôi đã tìm thấy nơi Đức Phật đản sanh


Ghi chú của Á Châu Tuần Báo (Asiaweek):

Nhiều thế kỷ qua, các du khách hành hương đổ xô đến chân núi Hy Mã Lạp Sơn để mong nhìn thấy chính xác nơi đức Phật đã ra đời hàng nghìn năm trước. Nay công việc tìm kiếm này đã kết thúc. Một nhóm chuyên gia khảo cổ quốc tế cho biết họ đã khám phá ra chứng tích cuối cùng xác nhận rằng đức Phật đã giáng sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) trong vùng tây nam vương quốc Nepal. Ký giả ngoại quốc đầu tiên được phái đến khu vực tìm ra thánh tích trên là Thomas Laird. Dưới đây là bài tường thuật của ông ta. 
Trụ đá của Vua A Dục (Ashoka) đặt tại vườn Lumbini,
Nepal, nơi Đức Phật đản sinh (Photo: wikipedia)
Mặc dù trong tình trạng suy tàn, ngôi chùa thờ Hoàng Hậu Ma Gia (Maya Devi) tại Phật tích Lâm Tỳ Ni (Lumbini), cách thủ đô Kathmandu xứ Nepal 240 cây số, là một trong những trung tâm hành hương chính của Phật Giáo. Trải qua hơn 2600 năm, phần đông Phật tử đều tin rằng đây là nơi đản sinh của đức Thế Tôn, vị giáo chủ của Phật Giáo. Nhưng các nhà khảo cổ vẫn chưa biết chính xác được nơi nào trong vườn Lâm Tỳ Ni, thái tử Tất Đạt Đa (đức Phật) đã ra đời. 

Nay các nhà khảo cổ cho biết đã tìm thấy một phiến đá không có vết nứt ở dưới nền của một ngôi chùa cổ xây cất khoảng vào năm 249 trước Tây Lịch. Mẫu đá này có chiều dài 45 phân và chiều ngang 15 phân tây được tìm thấy nằm sâu gần năm thước tây dưới một cái nền lát đá đổ nát của ngôi chùa trên.

Hai nhà khảo cổ Nepal Babu Khrishna Rijal và Nhật Bản Satoru Uesaka đã khám phá ra di tích này ngày 18 tháng 2 năm 1995. Nhưng họ trì hoãn gần một năm mới phổ biến cho công chúng biết. Vì muốn chờ kiểm chứng lại của các nhà khảo cổ ở những nước khác như Ấn Độ, Tích Lan và Hồi Quốc. Ông Rijal và Satoru bảo rằng sau khi xem xét kỹ phiến đá, các chuyên viên khảo cổ ba quốc gia trên đều “hoàn toàn đồng ý” công nhận là đúng. 

Hai nhà khảo cổ Nepal và Nhật cho biết thêm: “Chúng tôi đã dùng đến hoá chất và các kỹ thuật khác để áp dụng trong việc khảo cứu. Chúng tôi vẫn tiếp tục đào bới tại đây, và sau một năm tìm tòi, khảo sát kỹ lưỡng, bây giờ đã đến lúc chúng tôi cần thông báo cho mọi người biết kết quả về những khám phá của chúng tôi”.
Sau khi tin này được loan ra, có một số người tỏ vẽ nghi ngờ. Một tờ báo ấn hành tại Kathmandu (Nepal) phủ nhận sự trình bày về kết quả công việc nghiên cứu của hai nhà khảo cổ nói trên. Ông Satoru giải thích: “Thiên hạ tung ra nhiều tin đồn, nhưng chủ yếu là do lòng ganh ghét. Chúng tôi mong rằng, sau khi đọc kỹ bản báo cáo đầy đủ của chúng tôi, họ sẽ hết nghi ngờ”.

Tìm ra nơi đức Phật đản sinh là một công trình khảo cổ trọng đại đối với khoảng 350 triệu tín đồPhật Giáo trên thế giới cũng như sự khám phá ra thành phố Bethlehem, nơi Chúa Giê-su giáng sinh ngày xưa. Trước khi nhập diệt, đức Thế Tôn dạy rằng Phật tử nào có duyên lành đến chiêm bái vườn Lâm Tỳ Ni, nơi Ngài đã ra đời và ba thánh tích Phật Giáo khác (Bồ Đề Đạo Tràng, Vườn Lộc Uyễn và Câu Thi Na) thì sau khi lâm chung, họ có thể được phước báo “thác sinh lên cõi trời”. Cho nên sự phát hiện, tìm ra chứng tích lịch sử này hy vọng sẽ giúp cho nhiều du khách Nepal muốn đến chiêm bái Phật tích Lâm Tỳ Ni (Lumbini).

Tin tức về sự khám phá trên đầu tiên được loan ra vào ngày 4 tháng 2 năm 1996, chỉ giới hạn cho các ký giả địa phương ở Nepal. Uỷ Ban Phát Triển Lâm Tỳ Ni - một trong ba tiểu ban thực hiện đề án khai quật - cùng với Nha Khảo Cổ của chính phủ Nepal và Hội Đoàn Phật Giáo Nhật Bản, đã thông báo ra ngoại quốc, nhưng chỉ vài thông tín viên biết mà thôi. Trong tuần qua chưa có phản ứng chính thức gì từ các nhà lãnh đạo Phật Giáo tại Ấn Độ, nơi mà một số học giả vẫn thường tuyên bố rằng đức Phật đã không ra đời ở xứ Nepalmà tại quận Gorakhpur thuộc tiểu bang Uttar Pradesh (miền bắc Ấn Độ). Vườn Lâm Tỳ Ni nằm trong lãnh thổ Nepalcách tiểu bang Uttar Pradesh chỉ 10 cây số.

Theo kinh điển Phật Giáo, hoàng hậu Ma Gia, thân mẫu đức Phật, khoảng năm 623 trước Tây Lịch, trênđường trở về thăm quê hương ở nước Câu Ly (Koliya), bà đã ghé vào nghỉ ở vườn Lâm Tỳ Ni. Sau khi xuống tắm ở hồ nước thiêng, hoàng hậuđi 25 bước đến gốc cây Vô Ưu và hạ sinh thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha). Theo truyền thuyết Phật Giáo, vừa mới ra chào đời, thái tử đã bước đi bảy bước.

Gần 400 năm, sau khi vua A Dục (Asoka) lên nắm quyền cai trị toàn cõi Ấn Độ và ngài đã có công truyền bá Phật Giáo đến các quốc gia vùng Đông Á. Sử chép rằng vua A Dục có đến chiêm bái vườn Lâm Tỳ Ni, nơi đức Thế Tôn giáng sinh. Bấy giờ ngài đã ra lịnh cho đặt một viên đá ngay chỗ thái tử Tất Đạt Đa (đức Phật) ra đời và trồng một trụ đá sát bên cạnh. Trên trụ đá này có khắc mấy dòng cổ ngữ Ấn Độ đề cập đến phiến đá nói trên. Về sau, nhiều chùa đã được xây cất tại thánh tích này, nhưng trải qua nhiều thế kỷ đổi thay, Lâm Tỳ Ni đã rơi vào tình trạng đổ nát hoang tàn không còn ai biết tới. Mãi đến năm 1895, trụ đá vua A Dục mới được tìm thấy bởi nhà khảo cổ người Đức. Năm 1967, ông U Thant (Miến Ðiện) tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đến chiêm bái đã khóc khi thấy vườn Lâm Tỳ Ni trong cảnh suy tàn đổ nát.

Công việc khai quật của hai nhà khảo cổ Nepalvà Nhật Bản khởi đầu ba năm trước với 200 nhân công. Họ đã đào thấy cái nền nhà của 15 phòng. Ngay ở giữa họ khám phá, phát hiện một đường mương (trench) bên dưới có một phiến đá mà hai nhà khảo cổ tin rằng có thể nó là tấm đá do vua A Dục của Ấn Độ cho đặt xuống ngày xưa. Các nhân viên khảo cổ xứ Nepal xác nhận rằng từ đường mương này cách xa đúng 25 bước hồ nước thiêng nơi hoàng hậu Ma Gia đã tắm trước khi sanh thái tử Tất Đạt Đa. Ông Lok Darshan Bajracharya, nguyên chủ tịch Uỷ Ban Phát Triển Lâm Tỳ Ni đã phát biểu: “Khám phá này chứng tỏ cho thấy những điều ghi chép trong kinh điển Phật Giáo nói về địa điểm chính xác nơi đức Phật đản sinh xưa kia là đúng”. 

Hai ngày sau khi loan báo tin về kết quả việc khám phá trên, vua Nepal Birendra cùng với hoàng hậu Aishwarya và thủ tướng Sher Bahadur Deuba đã đến viếng thăm khu vực nơi các nhà khảo cổ đã tìm thấy phiến đá lẫn trụ đá A Dục (Asoka pillar). Trước khi đức vua và hoàng hậu Nepal đến chiêm bái, không một nhiếp ảnh gia ngoại quốc nào được phép tiến vào khu vực đang khai quật và toàn vùng này đã được ngăn chặn bao quanh bằng một dải băng vải nhựa màu vàng. 

Tôi chăm chú nhìn vua Nepalđang chất vấn hai chuyên gia khảo cổ Rijal và Satoru về phiến đá nằm bên dưới khung tò vò (arch) được xây bằng loại gạch thuộc thời đại vua A Dục. Họ giải thích đó là một “phiến đá khối kết” (conglomerate stone) không có tại địa phương mà nó được lấy từ nơi khác đến và đặt ngay ở trung tâm của ngôi chùa. Vua Birendra hỏi tiếp phải chăng chính đó là phiến đá mà trên trụ đá vua A Dục có khắc ghi nói đến. Họ đã trả lời chắc chắn là như vậy. Đức vua và hoàng hậu Nepal cùng đoàn tháp tùng tất cả vào chùa làm lễ trước tượng hoàng hậu Ma Gia (Maya Devi) và ra về. 

Sau đó, hai nhà khảo cổ Rijal và Satoru có cho tôi biết rằng ngày mai họ sẽ lên đường sang Ấn Độ để tham dự cuộc hội thảo, thuyết trình về khám phá chứng tích lịch sử quan trọng này. Cả hai ngạc nhiên khi nghe tôi đề nghị rằng họ nên ở lạiKathmandu để tiếp xúc mở cuộc họp báo với các ký giả ngoại quốc. Nhưng hai nhà khảo cổ đã trả lời: “Chúng tôi không thể vắng mặt trong buổi hội thảo nói trên tại Ấn Độ”. Chúng tôi sẽ mở cuộc họp báo tại Kathmandu (Nepal) sau, vì trể một vài ngày cũng không sao. 

Trích tuần báo ASIAWEEK số phát hành ngày 23-02-1996 trang 34 và 35 
Nguyên tác: Ký Giả Thomas Laird | Chuyển ngữ: H.T. Thích Trí Chơn

http://phathoc.net/PrintView.aspx?Language=vi&ID=7AC45B


*   GOOGLE: Bản đồ LUMBINI

*    GOOGLE: HÌNH ẢNH LUMBINI

Tứ Động Tâm – Lâm Tỳ Ni, Nơi Đức Phật Đản Sanh

Vào thời vua Tịnh Phạn, vườn Lâm-tỳ-ni là một khu vườn đầy hoa tươi cỏ lạ. Trong vườn có đầy cây xanh và bóng mát. Vẻ đẹp của Lâm-tỳ-ni đã quyến rủ đến độ hoàng hậu Maya trên đường từ Ca-tỳ-la-vệ về lại quê cha mẹ phải ngừng chân nghỉ và thưởng ngoạn.

Lâm-tỳ-ni nằm trên một ngọn đồi thuộc chân dãy Hy-mã-lạp-sơn, ngày nay thuộc vương quốc Nepal và trên đường từ thành Ca-tỳ-la-vệ đi Devadaha. Đây là một khu đất rộng 4km x 4km, trồng rất nhiều cây Simsapà. Đền Mayadevi và cột trụ Asoka, dựng lên vào khoảng năm 250 trước TL. Bên trong đền là cấu trúc nền nhà cổ xưa đã được khai quật, trong đó có một bia đá đánh dấu nơi Đức Phật đản sinh. Cạnh đền thờ là hồ Pushkarini, nơi Bồ Tát được tắm rửa sau khi đản sinh. Theo các sử liệu thì thái tử Siddharttha đản sanh vào ngày Vesak (tức là ngày trăng tròn tháng năm theo lịch Ấn Độ) vào năm 624 hoặc 625 trước Tây lịch.


Tuy Lâm-tỳ-ni là một trong những nơi quan trọng của thánh tích Phật Giáo nhưng nhiều năm tháng đã bị bỏ hoang và được nhà khảo cổ người Đức, ông Fóhrer, phát hiện năm 1895 qua tàn tích trụ đá vua A-dục, nhân một cuộc du ngoạn dưới chân ngọn đồi thuộc rặng núi Churia.

Lâm-tỳ-ni: Vào thời đại đế Asoka đến viếng thì vẫn còn là một thôn thịnh vượng có nhiều cảnh trí nên thơ. Nhà vua đã cho dựng bốn ngọn tháp và một trụ đá bằng sa thạch có tượng một con ngựa trên đầu trụ. Ngày nay trên trụ đá chúng ta vẫn còn thấy hàng chữ: “Sau hai mươi năm lên ngôi, vua Priyadrasi, người được chư thiên yêu mến, đã thân hành viếng thăm và cúng dường cũng như lễ bái nơi đây. Bởi vì Đức Phật, thánh nhân dòng họ Thích, đã được đản sanh ra tại trụ xứ này”.

Không xa trụ đá là một hồ nước, đánh dấu nơi hoàng hậu tắm sau khi sanh thái tử. Đứng xa xa nhìn hồ nước vô cùng nên thơ, bầu trời phản chiếu trong nước một màu xanh ngọc bích, màu xanh da trời đã bị màu xanh rêu của nước biến thể đi, và tàn cây Bồ-đề to lớn với những cành dài vươn trên hồ như muốn tắm mình trong nước thật là nên thơ.

Ngày tháng xoay vần, đổi thay, Thánh tích Phật giáo này cũng không ngoài cuộc thịnh suy. Nơi đây đã đi vào quên lãng hơn sáu thế kỷ, nhưng thông điệp của Đức Phật là bất diệt, lớn dần và trở nên quan trọng qua từng thế kỷ. Nhất là trong thế kỷ này Giáo lý Phật-đà lại càng có giá trị hơn bao giờ hết. Những lời dạy về từ bi, hòa bình, bao dung và con đường giác ngộ đã được tất cả tôn giáo trên thế giới đón nhận.

TRỤ ĐÁ A-DỤC

Ngày nay chúng ta đến Lâm-tỳ-ni thì không còn gì nữa cả, chỉ còn chăng một trụ đá chơ vơ bị bào mòn bởi thời gian, và gãy đổ bởi giông bão. Trụ đá được bao bọc bằng một hàng rào sắt cũ kỹ. Tất cả khách hành hương đều ngậm ngùi dừng bước nơi chân trụ đá để tụng một thời kinh. Trụ đá làm bằng một loại sa thạch, có lẽ ngày xưa cũng bóng láng như đầu sư tử tại viện bảo tàng Sarnath. Nguyên thủy trụ cao bao nhiêu không biết, nhưng ngày nay chúng ta thấy một cây cột trên nhỏ dần, đường kính khoảng nửa thước và cao khoảng 5 thước. Trên trụ còn khắc hàng chữ như trên đã thuật, ngoài ra còn có thêm một hàng nữa là: “Dân làng Lâm-tỳ-ni được giảm thuế và chỉ phải đóng một phần tám thuế lợi tức mà thôi”

Từ dung thoáng hiện bên trời tịnh

Hương hạnh lời thơm giữa cõi trần

(Trích…)

Nam-mô Phật Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni

Hôm nay đoàn chúng ta đến chiêm bái đảnh lễ thánh tích Phật Đản sinh. Xin nhắc thêm về ý nghĩa Phật ra đời.

Theo lịch sử thì Đức Phật từ cung trời Đâu-suất thị hiện đản sinh làm thái tử Tất Đạt Đa và ra đời duới cội cây Vô ưu nơi đây, hiện tại chúng ta đến chứng thực rõ ràng di tích này. Ngài là một con người như bao nhiêu con người. Sinh ra đời lớn lên, cũng có gia đình, cũng thụ hưởng ngũ dục ở cung vua, cũng ăn cũng uống cũng học tập như bao nhiêu người. Tuy sống trong ngũ dục, Thái tử không đắm chìm trong đó mà Ngài có trí tuệ vượt bậc, một sức sống vươn lên khác thường, Ngài vượt ra tìm con đường giải thoát cho chính mình, cho chúng sinh. Những điều này đâu có ai dạy Ngài. Chung quanh từ vua cha, rồi phu nhân Da-du-đà-la cũng cố buộc chân Ngài lại, nhưng Ngài quyết chí vượt ra.

Quí vị đọc sử nhớ khi Ngài đi dạo bốn cửa thành thấy cảnh người già, người bệnh, người chết, rồi hình ảnh vị sa môn khiến tâm Ngài băn khoăn, cuối cùng Ngài quyết chí vượt thành xuất gia. Bao nhiêu người cũng thấy như vậy, song lại cho là chuyện thường ở thế gian. Còn Ngài thì thắc mắc tại sao người ta sinh ra rồi già, bệnh, chết, có cách gì vượt ra hay không? Thế nên Ngài quyết tìm con đường thoát. Ngài không chấp nhận, cúi đầu trước định luật của thế gian như mọi người. Ngài phải tìm cho ra nguyên nhân và phương pháp giải quyết. Kết quả Ngài giác ngộ và đã tìm ra nguyên nhân của sinh già bệnh chết tức là Mười hai nhân duyên. Tìm được nguyên nhân tức là giải quyết được vấn đề ấp ủ trong tâm Ngài bấy lâu.

Đây nhắc về Đức Phật lịch sử, về sự. Đức Phật lịch sử với ba mươi hai tướng tốt hiện nay Ngài nhập Niết-bàn rồi. Nếu chúng ta chỉ bám vào thân Phật với ba mươi hai tướng tốt thì khi Phật nhập Niết-bàn chúng ta lấy cái gì để nương tựa lâu dài?

Ngưng còn về lý, thì Phật ra đời từ đâu? Chính tâm giác ngộ hiện hữu trong mỗi người mới thật sự là nơi nương tựa, nhận được tâm đó là thấy Phật thật. Bởi vì chính nó biết mê, chính nó biết giác. Phật thành Phật là thành trong đó. Ra đời cũng từ trong đó. Như vậy chúng ta thấy rõ Đức Phật ra đời từ tâm giác ngộ mà ai ai cũng đều có. Đây chính là chỗ nương tựa lâu dài. Cho nên khi vua Trần Thái Tông tìm lên núi Yên Tử gặp Quốc sư Trúc Lâm bảo: “Phật không có trong núi, chính cái tâm lặng mà biết đó là Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì ngay đây tức khắc thành Phật không phải nhọc nhằn tìm kiếm ở bên ngoài”. Chính cái tâm lặng mà biết đó mới là Phật, nếu nhận và tỏ ngộ được thì ngay đó Phật ra đời. Tức là tâm “biết” nhưng mà “lặng”. Vì lặng nên không theo duyên, tức là lìa duyên. Chính tâm đó là tâm giác ngộ, là nhân để thành Phật. Đó là Phật nhân. Hiểu và nhận được là đầy đủ cái nhân thành Phật, sống được và viên mãn công đức là thành Phật. Đức Phật ra đời cũng ngay trong đó. Cho nên người học Phật, học giác ngộ là học nơi tâm. Đây là căn bản và quan trọng.

Tóm lại, từ ý nghĩa này mỗi người nắm vững được căn bản học Phật, giúp chúng ta tu học vững vàng, bớt thời gian, bớt phí sức rất nhiều, Ngoài tâm học Phật, có khi lệch lạc, bị gạc cũng không hay. Chúng ta lo học cái này cái kia, biết đủ thứ chuyện trong đời, biết tới sao Hỏa, sao Mộc nữa, trong khi tâm mình lại không biết thì có thực tế không? Nếu mỗi người ngồi đây không có tâm thì sao? Không có tâm thì ra nghĩa địa rồi.


Đời này chúng ta cũng có duyên lành gặp được chánh pháp, gặp được thầy lành bạn tốt nhắc nhở, đánh thức chúng ta nhớ lại, không thì sự thiếu sót rất lớn. Mỗi khi quí vị mất chìa khóa tủ sắt, hoặc mất chỉ vàng thì sao? Là quýnh quáng chạy tìm lăng xăng, còn mất tâm thì sao không tìm? Đây là điều quan trọng. Nên nhắc lại để mỗi vị nhớ trở về tìm lại tâm mình. Nhưng tâm mình làm sao tìm? Chỉ cần rớt hết những cái không phải nó, buông hết những cái dư quá. Hiện giờ chúng ta đều dư quá nhiều rồi, quá tải luôn nữa, lại tưởng là thiếu, nên cứ lo chạy tìm. Một người có một tâm thôi thì đủ rồi mà chính đó mới là tâm gốc, nhưng hiện giờ mỗi người có mấy tâm? Tâm tham, tâm sân, tâm si là ba rồi, kể cả ngọn ngành nhỏ nhỏ tính đến hàng tỷ cái nữa. Cho nên dư quá nhiều, phải cho nó rớt bớt đến chỗ không còn gì để rớt nữa, thì đó chính là tâm mình. Đó là sống trở về. Vậy là nói tìm mà không có tìm gì hết! Chỉ buông đi là trở về gốc.

Hôm nay, chúng ta tương đối có chút trở về gốc, do duyên lành đoàn trở về và được ngồi lại nơi thánh tích Phật Đản sinh, xin nhắc lại chút ý nghĩa để mỗi vị nhớ, tỉnh giác, trở về tìm lại cái đáng tìm, cái gốc của mình; còn những cái không đáng tìm lại tìm, thật là đáng tiếc, đáng buồn. Sống tìm lại được bản tâm làm chủ cuộc sống, đó mới là chỗ nương tựa vững chắc lâu dài và cũng chính là mạch sống. Nếu người nhận được, sống được với bản tâm thì bảo đảm Phật pháp còn sống mãi ở thế gian và sẽ có nhiều Đức Phật tiếp nối ra đời. Mong rằng mỗi vị ý thức được nhân duyên hôm nay, nguyện đem công đức này hồi hướng cho tất cả đều trở về sống được bản tâm của chính mình, viên mãn con đường học Phật và tiến thẳng trên đường chánh giác.

Nam-mô Phật Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni.

Thiện Huấn

http://thegioiphatgiao.net/30/03/2012/tu-dong-tam-lam-ty-ni-noi-duc-phat-dan-sanh.html