Hiển thị các bài đăng có nhãn Huệ Dân. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Huệ Dân. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 26 tháng 12, 2013

Vài lời giới thiệu về Thần Chú

TS Huệ Dân

Thần chú tiếng phạn gọi là Mantra, bao gồm 2 chữ "Man" nghĩa là năng lực suy nghiệm (Thần) và "tra" (hậu tố từ) nghĩa là "chú = phương tiện" là lời, là tiếng, dùng làm phương tiện để diễn đạt.

Thần chú tiếng phạn gọi là Mantra, bao gồm 2 chữ "Man" nghĩa là năng lực suy nghiệm (Thần) và "tra" (hậu tố từ) nghĩa là "chú = phương tiện" là lời, là tiếng, dùng làm phương tiện để diễn đạt. Như vậy, "Thần chú" là phương tiện để suy nghiệm dẫn khởi một sự nối kết giữa thân tâm (vật chất và tinh thần) bằng âm thanh cô động. Chú hay Thần chú cũng có nhiều tên gọi khác nhau như: Chân ngôn, Chân âm, Mật ngữ (Mật ở đây là sự chứng tỏ mối liên hệ Mật thiết bên trong của sự vật hiện tượng và tinh thần. Đừng nên nhầm lẫn chữ Mật là Bí mật). Trong Phật giáo Thần chú là những lời mầu nhiệm chứa đựng năng lực đặc biệt đưa đến kết quả siêu việt áo nghĩa trở thành phương tiện trợ giúp tâm thức cho thân, khẩu, ý (thân mật, khẩu mật và ý mật). Vì nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng chưa có thể gọi là trọn vẹn thuần thành, cho nên còn phải thêm phần tụng kinh, trì chú và niệm Phật để viên dung Sự và Lý. Thần chú hay được lặp đi lặp lại trong các buổi tu tập hành trì, đặc biệt là Mật Tông thực hành để thanh lọc thân khẩu ý bất tịnh trở thành thanh tịnh và thực chứng được Pháp thân mà hiển bài Báo thân hay Hoá thân trần thế này. Chú cũng có nhiều loại khác nhau, dài hay ngắn tùy theo môn phái. Trong lúc niệm Thần chú phải tập trung lên mặt chữ (các chữ đó hiện thành dụng ảnh) hay lắng nghe từng âm thanh của nó (Các tiếng đó biến thành vọng âm). Trong chương 5 của tác phẩm Subāhupariprcchā có ghi cách đọc tụng chú như sau : Đừng quá gấp rút. Đừng quá chậm rãi. Đọc đừng quá to tiếng. Đừng quá thì thầm. Không phải lúc nói năng. Không để bị loạn động.

Thứ Hai, 23 tháng 12, 2013

Vài lời giới thiệu về ý nghĩa của chữ : Mantra (Thần Chú) - Phần 1

TS Huệ Dân

image
Trong Phật giáo Thần chú là những lời mầu nhiệm chứa đựng năng lực đặc biệt đưa đến kết quả siêu việt áo nghĩa trở thành phương tiện trợ giúp tâm thức cho thân, khẩu, ý (thân mật, khẩu mật và ý mật).
Vài lời giới thiệu về ý nghĩa của chữ : मन्त्र,  Mantra, Việt dịch là Thần Chú
मन्त्र  mantra là danh từ được ghép lại từ động từ căn √ मन् man và thân kép -tra  (hậu tố từ). मन्त्र  mantra có những nghĩa thông thường được biết như sau : Thảo luận, ý kiến, tư vấn, giải quyết, hoạt trình, câu châm ngôn, bài thánh ca thiêng liêng, phương tiện suy nghĩ, lời nói chân thật, biểu hiện của chân như, cân nhắc kỹ càng, suy nghĩ chín chắn, thong thả, khoan thai, không vội vàng, trao đổi kỹ lưỡng, thảo luận kỹ lưỡng, bàn bạc kỹ lưỡng.
मन्त्र  mantra Hán Việt gọi là Chân ngôn  真言, Thần chú (神咒), Mật ngôn (密言), Mật ngữ (密語), Mật hiệu (密號).
Động từ căn √ मन् man có nhiều nghĩa thông thường được biết như sau :  suy nghĩ, phản ánh, đánh giá, kiến ​​thức, tin tưởng, tưởng tượng, giả sử, xem xét, giữ cho,
ước tính cao, đánh giá cao, tôn vinh, ca ngợi, cho rằng, muốn hiểu, làm cho có ý nghĩa.
Biến dạng từ danh từ  मन्  man thành động từ  मन्त्र् mantr
मन्   →    मन्त्र     → मन्त्रय         → मन्त्र्
man → mantra → mantraya → mantr

Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

Giữa Có và Không là… ?

TS Huệ Dân


Nhờ vào sự đối chiếu giữa cái Có và cái Không của vạn vật, bằng cái nhìn, cái nghe thường nghiệm và sự hiểu biết am tường về chân tướng của vũ trụ nhân sinh, thì con người ta có thê nhận định rõ một cái không thật trong thế giới hiện hữu của họ.

Có những việc trên đời người ta cứ ngỡ là Có, nhưng đó chính lại là Không, hoặc những chuyện người ta cho không bao giờ có thể Có, nhưng trên thực tế là Có. Có và Không, đến, rồi đi, cứ lặp đi lặp lại như một vòng xoáy bất tận. Trong cuộc sống thường ngày chữ Có và chữ Không, thực sự chúng chỉ là những thứ phổ biến bình thường tìm thấy rất nhiều, thông qua việc dùng năm giác quan của con người.

Chữ Có và chữ Không thường được xem như hai từ trái nghĩa, bởi vì chúng có khả năng làm nổi bật sự đối lập giữa hai mặt hay hai đối tượng nào đó một cách rõ rệt. Thí dụ: Có xa không? Không có xa. 

Theo sự sử dụng ngôn ngữ chữ Có được người ta dùng để chỉ định cho những trạng thái tồn tại nào đó giữa con người và các vạn vật trong thiên nhiên qua nhiều lãnh vực khác nhau…

Chữ Không thường được dùng để biểu thị cho ý phủ định theo một cách nói chung chung trong những sinh hoạt thường nhật của nhân loại. Tuy nhiên chữ Không cũng có những nghĩa khác nhau tùy theo cách dùng riêng qua dạng danh từ, phụ từ hay tính từ…

Thứ Ba, 18 tháng 6, 2013

Vài lời giới thiệu về Hoa Sen và ý nghĩa tám cánh hoa sen trong Phật học

 Huệ Dân


Theo truyền thuyết Phật học, sau khi Đức Phật được sinh ra, Ngài bước bảy bước và mỗi bước có hoa sen đỡ chân cho Ngài. Rồi mỗi lần đến chùa, khi nhìn lên bàn Phật, thì thấy tượng của Đức Phật ngồi trên tòa sen.

Sen là loại thực vật thủy sinh sống lâu năm, mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở những vùng nước ao đọng, bẩn đục hay sông, hồ. Các lá to với đường kính tới 20 cm - 60 cm, thường nổi trên mặt nước như những chiếc phao và có đặc điểm là không thấm nước.

Thứ Hai, 13 tháng 8, 2012

Đạo Phật là gì ?

    TS Huệ Dân

Đạo Phật không phải là một hệ thống của đức tin và thờ phượng, và cũng không đòi hỏi sự tin tưởng mù quáng, mà cần đặt niềm tin dựa trên trí hiểu biết về sự thực. Người Phật tử đặt niềm tin nơi Ðức Phật, bởi vì Ngài là người đã khám phá ra con đường giải thoát. Cũng giống như người bệnh tin dùng toa thuốc mà thầy thuốc đã cho để uống được lành bệnh.