Hiển thị các bài đăng có nhãn DUY THỨC LUẬN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn DUY THỨC LUẬN. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 22 tháng 10, 2014

THÀNH DUY THỨC LUẬN | BA MƯƠI BÀI TỤNG DUY THỨC


Share on facebook
THÀNH DUY THỨC LUẬN 
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang 
Việt dịch : Hòa Thượng Thích Thiện Siêu 
Mùa An cư P.L. 2539 – 1995
BA MƯƠI BÀI TỤNG DUY THỨC
1. Do giả nói ngã pháp, 
Có tướng ngã pháp chuyển. 
Chúng nương thức biến hiện. 
Thức biến hiện có ba.
2. Là Dị thục, Tư lương, 
Và thức Liễu biệt cảnh. 
Đầu, Thức A lại da 
Dị thục, Nhất thiết chủng.
3. Không thể biết chấp thọ, 
Xứ, liễu, tương ưng, xúc, 
Tác ý, thọ, tưởng, tư. 
Và chỉ có xả thọ.
4. Tánh vô phú vô ký, 
Xúc, thảy cũng như thế, 
Hằng chuyển như dòng nước. 
A la hán, bỏ hết.
5. Thức biến hiện thứ hai, 
Gọi là thức Mạt na. 
Nương kia chuyển, duyên kia, 
Tư lương làm tánh tướng.
6. Tương ưng bốn phiền não, 
Là ngã si, ngã kiến, 
Và ngã mạn, ngã ái, 
Cùng tâm sở Biến hành.
7. Tánh hữu phú vô ký, 
Sanh theo A lại da. 
Chứng La hán, Diệt định, 
Xuất thế đạo, không còn.
8. Thức biến hiện thứ ba, 
Sai biệt có sáu thứ, 
Tánh tướng là biết cảnh, 
Thiện, bất thiện, vô ký.
9. Cùng tâm sở Biến hành, 
Biệt cảnh, Thiện, Phiền não, 
Tùy phiền não, Bất định. 
Đều tương ưng ba Thọ.

Thứ Ba, 21 tháng 10, 2014

THÀNH DUY THỨC LUẬN | CHÚ THÍCH


Share on facebook
THÀNH DUY THỨC LUẬN 
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang 
Việt dịch : Hòa Thượng Thích Thiện Siêu 
Mùa An cư P.L. 2539 – 1995
CHÚ THÍCH
(1). Các vị Luận sư có thông lệ mỗi khi tạo Luận, mở đầu đều có lời quy kính Tam Bảo.
Đây cũng vậy, khi các Luận sư Thắng Thân, Hỏa Biện v.v... định tạo luận giải thích 30 bài tụng Duy thức của Bồ tát Thế Thân, cũng mở đầu bằng bài tụng bốn câu này để tỏ lòng quy kính Tam Bảo.
Duy thức tánh tức là tánh Viên thành thật, là tánh Chơn như. Như trong bài tụng này có câu tụng: "Đây thắng nghĩa các pháp, cũng chính là chơn như, vì thường như tánh nó, tức thực tánh Duy thức".
Duy thức tánh là chơn như thật tánh của các pháp, là chỗ nương của mê ngộ, là chỗ chứng ngộ của bậc Thánh.
Kính lễ Duy thức tánh là kính lễ Pháp bảo. Chứng Duy thức tánh trọn vẹn là đã chuyển tám thức thành bốn trí, chứng đắc chuyển y; chuyển bỏ phần tạp nhiễm y nơi bản thức và chuyển đắc phần thanh tịnh y nơi bản thức, giải thoát khỏi phân đoạn sanh tử và biến dịch sanh tử. Đã chứng trọn vẹn Duy thức tánh, đó là đức Phật, Phật bảo. Còn mới chuyển được thức thứ sáu thành Diệu quan sát trí, chuyển thức thứ bảy thành Bình đẳng tánh trí, mới dứt hết mười trọng chướng, chứng mười chơn như, chỉ mới chứng từng phần Duy thức tánh, đó là các vị Bồ tát Thánh Tăng, Tăng bảo.
(2) Đoạn này nêu ba lý do tạo luận:
a. Chỉ cho chúng sanh thấy tánh chấp ngã, chấp pháp là một lối chấp sai lầm điên đảo, chính vì chấp ngã mà phát sanh tâm tham, sân, si thành phiền não chướng, làm chướng ngại không chứng Niết bàn giải thoát. Chính vì chấp pháp thành sở tri chướng, làm chướng ngại không thấy được chơn lý, không chứng được đại Bồ đề. Nếu rõ lý ngã không, pháp không thì sẽ phá bỏ chấp ngã, chấp pháp, dứt hết chướng phiền não và sở tri, chứng được Niết bàn và Bồ đề giải thoát an lạc (đây là ý của Luận sư An Huệ).
b. Vì không hiểu đúng lý Duy thức nên mới chấp ngã, chấp pháp. Nếu hiểu lý Duy thức, thì bệnh chấp ngã, chấp pháp tiêu tan và không còn bị ràng buộc trong vòng sanh tử (đây là ý của Hỏa Biện).

Thứ Hai, 20 tháng 10, 2014

THÀNH DUY THỨC LUẬN | DUY THỨC LUẬN


Share on facebook
THÀNH DUY THỨC LUẬN 
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang 
Việt dịch : Hòa Thượng Thích Thiện Siêu 
Mùa An cư P.L. 2539 – 1995
XXIV. CỨU CÁNH VỊ
- Thứ năm, cứu cánh vị tướng nó như thế nào?
Tụng rằng:
 Đây, tức giới vô lậu,
Chẳng nghĩ nghì, thiện, thường.
An lạc, thân giải thoát.
Đại Mâu ni pháp thân.
Luận rằng: Quả chuyển y của địa vị tu tập thành được trước đó, tức là tướng trạng của cứu cánh vị này. Chữ "đây" trong bài tụng là chỉ hai quả chuyển y trước đó, nó nhiếp vào giới cứu cánh vô lậu. Các lậu vĩnh viễn sạch hết, vô lậu theo đó tăng lên, tánh trong sạch tròn sáng, cho nên gọi "vô lậu". Chữ "giới" nghĩa là "kho tàng", vì trong đó dung chứa vô biên đại công đức hy hữu. Hoặc "giới" nghĩa là "nhân" vì có thể sanh ra sự lợi lạc cho cả năm thừa thế và xuất thế gian.
Hỏi: - Pháp giới thanh tịnh có thể chỉ nhiếp về vô lậu, còn bốn trí tâm phẩm tại sao chỉ là vô lậu?
Đáp: - Vì nó nhiếp về Đạo đế, nên chỉ là vô lậu. Nghĩa là công đức và thân, độ của Phật đều từ chủng tử vô lậu phát sanh, vì chủng tử pháp hữu lậu đã vĩnh viễn dứt bỏ, tuy có thị hiện làm thân sanh tử và các nghiệp phiền não, tợ như là Khổ đế, Tập đế, song kỳ thật thuộc về vô lậu Đạo đế.
Hỏi: - Tập Luận nói: "Mười lăm giới chỉ hữu lậu", đức Như Lai há không có mười lăm giới là năm căn, năm thức, năm trần hay sao?
Đáp: - Có người cho rằng công đức và thân, độ của Như Lai sâu xa vi diệu, chẳng phải có chẳng phải không, lìa các phân biệt, dứt hết hý luận, không nhiếp vào các pháp môn giới, xứ, nên không trái với Tập Luận nói.
Có người cho rằng năm căn, năm cảnh của đức Như lai từ diệu định Thủ Lăng Nghiêm phát sanh, chỉ nhiếp về pháp giới sắc (chứ không phải sắc trần); còn năm thức của chín giới hữu tình không phải Phật, tuy dựa nơi pháp giới sắc của Phật mà biến ra tướng phần để duyên, nhưng tướng phần thì thô, mà pháp giới sắc thì tế khác nhau, cho nên pháp giới không nhiếp vào năm trần , mà năm thức của Như Lai cũng không thuộc năm thức giới, vì Kinh nói: "Tâm Phật thường ở trong định, và luận nói năm thức tánh tán loạn".