Hiển thị các bài đăng có nhãn Sám hối. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sám hối. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 15 tháng 2, 2014

Sám Hối

HT Thích Thiện Hoa

A.- Mở Ðề

Chúng ta sống trên đời này không ai là hoàn toàn trong sạch. Phật thường dạy: “Phàm còn xuống lên ba cõi, lăn lộn trong sáu đường, thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi”.

Thật thế, cõi đời này đã được gọi là cõi trần, thì làm sao trong sạch được? Người ta thường nói “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”; vậy thì ở trong buị tất phải lấm buị. Buị đời đã lâu đời lâu kiếp phủ lên thân, lên đầu chúng ta, vào trong buồng gan lá phổi của chúng ta. Nó làm cho chúng ta mờ mắt không thấy được đường chánh; nó làm cho chúng ta đục lòng, không thấy được chân tâm. Nếu chúng ta muốn sống mãi trong cảnh buị nhơ, muốn đắm mình trong tội lỗi, thì không nói làm gì. Nhưng khi

chúng ta đã muốn được trong sạch thảnh thơi, muốn trút bỏ tội lỗi cho lòng được nhẹ nhàng, thư thới, thì tất nhiên chúng ta phải tìm phương pháp để trừ cho hết buị bặm, tẩy trừ cho hết tội lỗi. Trong Ðạo Phật, phương pháp tẩy trừ ấy gọi là sám hối.

Thứ Ba, 11 tháng 9, 2012

Ý nghĩa pháp "Sám hối" trong Đạo Phật

Thích Hạnh Bình

SÁM HỐI là một trong những pháp tu tập trong Phật giáo, nó không những là một phương pháp tu tập khá phổ biến trong Phật giáo Đại thừa, còn là một phương pháp rất tích cực và hữu hiệu trong việc ngăn chận sự tái diễn của những hành vi bất thiện của 3 nghiệp trong Phật giáo Nguyên thủy. Nếu Phật giáo Đại thừa chọn 2 ngày 14 hay ngày rằm, ngày 29 hay 30 làm ngày lễ sám hối chung cho 2 giới xuất gia và tại gia, thì Phật giáo nguyên thủy dùng phương pháp quan sát 3 nghiệp của chính mình làm phương pháp tu tập, có nghĩa là kiểm tra 3 nghiệp đã qua của mình, nghiệp nào trong 3 nghiệp ấy phạm phải sai lầm, vị đó cần tìm vị thầy hay tương đương vị thầy để bộc bạch trình bày lỗi lầm của mình và phát nguyện từ đây trở về sau không tái phạm sự sai lầm đó nữa.

Thật ra, sự khác biệt giữa 2 phương pháp tu tập này chỉ là sự khác biệt trên hình thức giáo dục, nhưng xét về ý nghĩa thì cả 2 đều có chung ý nghĩa và mục đích. Tại sao Phật giáo Đại thừa lấy việc lạy Phật làm phương pháp sám sối, mong rằng ngang qua hình thức thành khẩn lễ lạy này sẽ được chư Phật Bồ tát chứng minh và thấu rõ hành vi sám hối của mình ? Nếu chúng ta muốn lý giải vấn đề này một cách rõ ràng, không mâu thuẩn giữa ý nghĩa tu tập và hình thức tu tập, chúng ta cần liên hệ đến tinh thần giáo dục của Phật giáo Đại thừa. Đó là một tinh thần giáo dục mở, dành cho tất cả mọi người trong xã hội, từ người nông phu cho đến tầng lớp tri thức, từ tại gia cho đến người xuất gia. Một đối tượng giáo dục quá rộng lớn như vậy, chắc chắn không thể sử dụng hình thức giáo dục chuyên môn sâu sắc được, mà phải là những hình thức giáo dục đơn giản dễ hiểu, nhất là đại đa số quần chúng là những người không có trình độ nhận thức, suy luận cao, vì đáp ứng nhu cầu thực tế này, Phật giáo Đại thừa không thể không sử dụng hay vay mượn những hình thức tín ngưỡng quen thuộc của người dân,không nhu caàu suy luận nhieàu, làm phương tiện giáo dục, khuyên con người bỏ điều ác làm việc lành, mang tính hướng thiện, hay nói một cách chính xác hơn Phật giáo Đại thừa không ngần ngại sử dụng những văn hoá, lễ nghi tôn giáo để gởi gắm một đạo lý sâu xa trong đó, để cho người trí thức có ngang qua những hình thức này đón nhận một chân lý tuyệt vời ở trong đó. Đó chính là lý do tại sao Phật giáo Đại thừa chọn những hình thức tu tập xem trọng về hình thức như vậy. Ngược lại, Phật giáo Nguyên thủy thì đơn giản hơn, đối tượng mà ngài giảng dạy trong kinh A hàm hay trong Nikàya hầu như là những người xuất gia, là những người chỉ có một mục đích duy nhất là thành đạt sự giác ngộ và giải thoát. Một đối tượng giáo dục rất là chuyên môn, hẳn nhiên những người này dù ít hay nhiều phải nắm rõ đường lối tu tập trong chánh pháp, do đó ngài không cần phải trình bày lòng vòng hay vay mượn những hình thức văn hoá của thế gian mà trực tiếp đề cập và phương pháp giải quyết vấn đề. Đây chính là lý do tại sao 2 nền giáo dục khác nhau giữa 2 hệ thống giáo dục Đại thừa và Tiểu thừa.

Cho dù như thế nào đi nữa, bạn hiểu tính giáo dục của Phật giáo Đại thừa là mê tín hay chánh tín, điều đó không quan trọng, chỉ xác định trình độ hiểu biết của bạn đối với quá trình phát triển tư tưởng Phật học mà thôi, nhưng chúng ta phải thừa nhận một điều rằng, người biết lạy Phật biết tụng kinh là người biết phục thiện, tôn trọng đạo đức, sợ nhân quả xấu, biết hổ thẹn…đây là những đức tính cơ bản, để xây dựng một đời sống tốt đẹp và lành mạnh trong xã hội. Nếu chúng ta đứng về mặt giáo dục mà quan sát, nó có ý nghĩa tích cực trực tiếp hoặc gián tiếp đóng góp về mặt xây dựng đạo đức cho xã hội, giảm thiểu những tệ nạn xã hội. Nhưng đứng về mặt ý nghĩa, nếu chúng ta không nắm rõ tinh thần giáo dục và mục đích giáo dục của Phật giáo Đại thừa, chỉ dựa vào hình thức giáo dục, ngang qua sự phân tích mang tính suy diễn của cá nhân, thì Phật giáo Đại thừa dễ dàng phát sinh sự ngộ nhận đáng tiếc.

Bài viết này với mục đích đáp ứng nhu cầu hiểu biết Phật pháp cho người Phật tử. Người Phật tử lấy đó làm cơ sở để từng bước tiến sâu vào vườn hoa của Phật pháp, lấy đó làm cơ sở để vun bồi niềm tin trong sáng của mình đối với Phật pháp, và an tâm tu họy, nội dung bài viết này, tôi sẽ căn cứ hai nguồn tư liệu của Phật giáo Nguyên thủy và Đại thừa, cụ thể là ‘Kinh giáo giới Rahula trong rừng Ambala’ và một câu kệ trong pháp môn Sám hối mà mỗi nửa tháng chúng ta thường nghe quí thầy cô xướng ‘Tội từ tâm khởi…’ Để rút ra những điểm chung nhất và cốt lõi của hai hệ thống kinh điển này, nhằm giới thiệu cùng độc giả, và nơi đây tôi sẽ cố gắng trình bày một cách đơn giản và dể hiểt, để cho mọi người đều hiểu được lời Phật dạy.

1. MỐI QUAN HỆ GIỮA SÁM HỐI VÀ 3 NGHIỆP

Như tôi vừa giải thích, nghi thức ‘sám hối’ là một trong những phương pháp tu tập trong đạo Phật. Ý nghĩa chữ tu tập trong đạo Phật, nói cho cùng chính là sự sửa đổi 3 nghiệp, có nghĩa chuyển hóa 3 nghiệp bất thiện thành 3 nghiệp thiện.

Ở đây, trước khi chúng ta muốn tìm hiểu ý nghĩa của từ ‘SÁM HỐI’ thì công việc đầu tiên mà chúng ta phải tìm hiểu trước tiên là: Thế nào là 3 nghiệp ? thế nào gọi là nghiệp ác ? và thế nào gọi là nghiệp thiện ?

Trước hết, chúng ta tìm hiểu thế nào gọi là 3 nghiệp(trìni-krmàni)1. 3 nghiệp bao gồm thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp; Khái niệm ‘nghiệp’ vốn không phải là khái niệm của người Hoa hay người Việt nam chúng ta, mà nó là khái niệm được you nhập từ văn hóa Ấn độ, nó cũng không phải là từ riêng của Phật giáo mà là từ được sử dụng rất phổ biến trong các tôn giáo hay các nền triết học của Ấn độ, điều mà chúng ta cần chú ý là mỗi Tôn giáo và triết gia khi giải thích từ này đều có ý nghĩa riêng biệt của nó, không giống nhau hoàn toàn, nhưng có ảnh hưởng lẫn nhau. Ở đây, vì tính chất và phạm vi của bài viết, không cho phép chúng ta vượt qua những gì không liên quan đến chủ đề. Như vậy, chúng ta chỉ giới hạn thảo luận khái niện nghiệp trong Phật giáo. Thật ra, nếu chúng ta đứng từ góc độ tư tưởng sử Phật giáo mà nhìn, thì nghiệp của được giải thích theo lăng kính của từng hệ thống tư tưởng khác nhau trong Phật giáo, nhưng điểm chung nhất của các phái là trong 3 nghiệp lấy ý nghiệp làm làm chính.

Nghiệp tiếng Pàli là kamma tiến Phạn gọi là krma đều có ý nghĩa là sự tạo tác, hành động, hành vi. Nhưng ở đây chúng ta cần chú ý nghiệp trong Phật giáo đặc biệt chú trọng vai trò của ý nghiệp (manas-krman)2, tức là hành vi có ý thức, vì nó chính là chủ nhân của mọi hành vi của thiện và ác3. Như vậy khi chúng ta nói đến thân nghiệp(kàya-krma) hoặc khẩu nghiệp (ỳak-krman)có nghĩa là đã đề cập đến ý nghiệp, vì bất cứ hành vi nào không có ý nghiệp tham gia thì hành vi đó không có kết giả vui hay khổ cho nên không thành nghiệp hay gọi nó là vô ký nghiệp. Đây chính là ý nghĩa chữ nghiệp trong Phật giáo.

Kế đến, chúng ta thường hiểu , thế nào gọi là hành vi ác nghiệp và thiện nghiệp ? Thông thường chúng ta gọi những hành vi như là sát sinh, lấy của không cho, sống tà hạnh, nói láo, uống rượu…là những hành vi ác hay gọi là nghiệp bất thiện4, và ngược lại được gọi là thiện nghiệp. Nhưng trên thật tế, đôi khi chúng ta căn cứ trên mặt hình thức của những hành vi đi đến kết luận nó là những hành vi bất thiện hay thiện, có thể dẫn đến sự kết luận sai lầm, vì đôi lúc động cơ thúc đẩy hành vi không hẳn là như vậy. Ví dụ, khi ta thấy một kẻ khủng bố đang tiến hành việc khủng bố người khác, ta biết được hành vi của kẻ ấy, và trong trường họp ấy không có cách nào khác, chỉ bằng cách đánh hoặt kẻ đó, mới có thể cứu được người khác. Trong trường họp này, hành vi đánh hoặc giết người, nếu chúng ta đứng trên mặt hình thức mà đánh giá thì đó là hành vi ác, nhưng đứng về mặt đạo đức mà suy xét, hành vi đóng gọi là ác mà ngược lại gọi là thiện, vì người đó giết người với tâm sáng suốt và từ bi, vì sự an vui hạnh phúc cho con người và xã hội, không phải với tâm ngu si hay lòng sân hận. Như vậy, trong Phật giáo hành được định nghĩa là thiện hay ác không căn cứ vào những hình thức bề ngoài mà căn cứ vào tâm tư của người đó, cách suy của người đó là thiện hay là ác thì hành vi đó căn cứ vào tâm đó má xác định.

Thế thì vấn đề được đặc ra ở đây là: Thế nào là tâm thiện và thế nào là tâm ác ? liên quan đến vấn đề này, trong “Kinh Trung Bộ” ‘Kinh Chánh Tri Kiến’ được đức Phật giải thích như sau:

“Chư Hiền, thế nào gọi là căn bổn bất thiện? Tham là căn bổn bất thiện, sân là căn bổn bất thiện, si là căn bổn bất thiện. Chư hiền, như vậy gọi là căn bổn bất thiện……Chư Hiền, thế nào gọi là căn bổn thiện? Không tham là căn bổn thiện, không sân là căn bổn thiện, không si là căn bổn thiện. Chư hiền, như vậy gọi là căn bổn thiện.”5

Qua đoạn kinh vừa dẫn trên, đức Phật đã cho chúng ta một định nghĩa rất thực tế có liên hệ mật thiết đến cuộc sống mà chúng ta đang sống, có những hành vi biểu hiện bề ngoài rất là đẹp và đạo đức, nhưng khi chúng ta đi sâu vào tâm hồn của họ thì không là như vậy, một tâm tư khá lương lẹo và độc ác mà chúng ta khó lường được; Ngược lại, cũng có những người nhìn hình thức bên ngoài biểu hiện hành vi rất thô lỗ dữ tợn, nhưng xét về tâm hồn của họ thật là dễ thương và hiền hoà và trong sáng, sự tương phản này là sự mâu thuẫn giữa hành vi và sự suy nghĩ của con người, thật khó cho chúng ta đoán định đâu là đúng đâu sai, đâu là thiện đâu là ác ? Đứng trước sự kiện gần như là bế tắc này, đức Phật đã mở cho chúng ta một con đường đi thật là rõ ràng và họp lý, Ngài chỉ ra rằng, ý thức con người là chủ nhân sai sử mọi hành vi thiện ác, sự biểu hiện bên ngoài chỉ là tay sai công cụ thực thi ý muốn của ý thức, do vậy chúng ta muốn đánh giá một hành vi nào, nó thuộc thiện hay ác thì căn cứ vào ý thức. Và hành vi thiện hay ác được gắng liền với 3 độc là tham sân và si mê. Nếu hành động nào gắng liền với 3 độc này được gọi là căn bản bất thiện, và ngược lại được gọi là căn bản thiện. Tại sao gọi nó là căn bản, vì 3 độc là các để con người biểu hiện nhưng hành vi khác nhau, cho nên được gọi nó là ‘căn bản’. Như vậy, lòng tham sân si hoặc lòng không tham không sân và không si chính là động cơ thúc đây để cho thân và khẩu thực thi những hành vi thiện hoặc bất thiện.

Nếu chúng ta đứng từ góc độ này mà tìm hiểu ý nghĩa sám hối trong đạo Phật, hẳn nhiên chúng ta thấy hành vi sám hối của 3 nghiệp có mối quan hệ mất thiết với việc đoạn trừ hay chuyển hóa lòng tham sân và si này. Nếu như việc sám hối chỉ dừng lại ở mặt hình thức, có nghĩa là thân lạy Phật, miệng đọc tụng lời sám hối, nhưng tâm tư lại suy nghĩ việc bất chính, không chịu thay đổi 3 nghiệp bất thiện của mình, việc sám hối đó thật không có ý lợi gì. Vì sự sám hối chỉ có lợi ích khi nào chúng ta thật sự ăn năng hối hận và từ bỏ những lỗi lầm của mình. Do vậy, để cho việc Sám hối thật sự có lợi ích, chúng ta cần phải phối họp 3 nghiệp một cách chặt chẽ, khi chúng ta 5 vóc gieo xuống đất-lạy phật với lòng thành kính, miệng xướng danh hiệu Phật hoặc đọc lời văn sám hối, cần chuyên tâm nhất ý lãnh thọ lời Phật dạy, dùng hình ảnh đức Phật hoặc lời Phật dạy làm ngọn đuốc soi sáng, phản chiếu 3 nghiệp của mình đã làm, thấy rõ hành vi sai trái, hết lòng và thành thật sửa đổi. Nếu làm được vậy, cõi ác càng ngày càng xa, cõi lành càng ngày càng gần. Như vậy, sự sám hối này có quan hệ mật thiết với 3 nghiệp, hay nói một cách khác, sám hối cũng có nghĩa là sự chuyển đổi 3 nghiệp bất thiện thành 3 nghiệp thiện..

2. Ý NGHĨA SÁM HỐI TRONG KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

Phần lớn các nhà học giả cho rằng, Nguyên thủy Phật giáo là thời kỳ sau khi đức Phật thành đạo cho đến khi Phật giáo chưa chia rẽ thành Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ. Thật ra ở thời này, kinh điển Phật giáo chưa kết tập thành vaăn tự, truyền thừa dưới hình thức khẩu truyền. Thánh điển Pàli là 5 bộ Nikàya và 4 bộ A hàm là những thánh điển của Phật giáo bộ phái, được kết tập dưới thời vua Asoka vào khoảng thế kỷ thứ III TCN. Như vậy, làm thế nào để chúng ta có thể hiểu tư tưởng của Phật giáo Nguyên thủy ? Có lẽ chỉ có cách duy nhất là ngang qua 2 nguồn thánh điển này, chúng ta tìm hiểu về cuộc sống và tư tưởng của đức Phật ở Phật giáo Nguyên thủy. Do vậy, từ mà tôi gọi là Phật giáo Nguyên thủy là muốn ám chỉ đến 2 nguồn tư liệu A hàm và Nikàya.

Liên quan đến vấn đề sám hối mà chúng ta đang đề cập, trong kinh tạng Pàli và A hàm có khá nhiều kinh đề cập, với nội dung đức Phật giảng dạy, khi chúng ta vấp phải sự sai lầm, cần có tâm ăn năng sám hối, vì sám hối là pháp làm trong sáng tâm linh, là nền tảng thăng hoa cuộc sống đạo đức, cũng là cơ sở cho người xuất gia và tại gia vương tới cuộc sống giác ngộ và giải thoát. Vì tránh sự trùng lập, do vậy ở đây tôi chỉ trích dẫn một vài kinh mang tính tiêu biểu, để trình bày ý nghĩa về pháp sám hối ở trong Phật giáo nguyên thủy, lấy đó làm nền tảng để chúng ta tìm hiểu sự phát triển của nó ở Phật giáo về sau. Đề cập đến pháp sám hối, theo tôi, bài kinh tiêu biểu nhất là: ‘Giáo giới Rahula trong rừng Am-ba-la’ trong “Kinh Trung Bộ”6. Trong kinh này, đức Phật khuyên dạy Rahula khi vấp phải sự sai lầm nên ăn năn sám hối như sau:

“Nếu trong khi phản tỉnh, này Rahula, ông biết như sau: ‘Thân (và khẩu) nghiệp này ta đã làm, Thân (và khẩu) nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời Thân (và khẩu) nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ’. Một thân (và khẩu)như vậy, này Rahula, ông cần phải thưa lên, cần phải tỏ lộ, cần phải trình bày trước các vị đạo sư, hay trước các vị đồng phạm hạnh có trí. Sau khi đã thưa lên, tỏ lộ, trình bày, cần phải phòng hộ trong tương lai.”.7

Khác với trường hợp của thân nghiệp và khẩu nghiệp, trong trường hợp ý nghiệp được đức Phật giảng dạy như sau:

“Sau khi ông làm xong một ý nghiệp, này Rahula, ông cần phải phản tỉnh ý nghiệp ấy như sau: ‘Ý nghiệp này ta đã làm, ý nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời ý nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ’. Nếu trong khi phản tỉnh, này Rahula, ông biết như sau: ‘Ý nghiệp này ta đã làm. Ý nghiệp này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; ý nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ’. Một ý nghiệp như vậy, này Rahula, ông cần phải lo âu, cần phải tàm quí, cần phải nhàm chán. Sau khi lo âu, tàm quý, nhàm chán, cần phải phòng hộ trong tương lai.”8

Hai đoạn kinh vừa nêu trên, là lời khuyên dạy của đức Phật đối với tôn giả Rahula, là người con duy nhất của ngài khi chưa xuất gia. Qua đó, nó gợi ý cho chúng ta thấy, lời dạy của ngài rất thực tế, không mơ hồ, nó luôn luôn gắng với đời sống hằng ngày của con người và có giá trị rất thiết thực gắng liền với đời sống hiện tại. Ngài khuyên răn nhắc nhở Rahula trước khi làm một việc gì, đang làm một việc gì và sau khi làm việc gì, chún xem xét quan sát việc đó, nó có mang lại phiền não khổ đau cho mình và người không, nếu như có thì đó là việc ác, nếu ta đang làm thì cần phải dừng lại ngay, nếu như đó là việc chúng ta sẽ làm thì nên từ bỏ ý định đó. Còn nếu như chúng ta đã lỡ làm một thân nghiệp hay khẩu nghiệp gì bất thiện, chúng ta cần phải đem sự kiện này thưa lên với bậc Đạo sư hay vị đồng phạm hạnh có trí, để cho vị ấy nắm rõ sự kiện và có lời khuyên dạy thích đáng, nhằm chấm dứt việc làm bất thiện của thân và miệng trong tương lai. Nhưng riêng về ý nghiệp thì không hoàn tòan giống như thân nghiệp và khẩu nghiệp, đức Phật dạy khi chúng ta phạm phải sai lầm về ý nghiệp thì tự mình ăn năn sám hối và phòng hộ trong tương lai không tái phạm, nhưng đức Phật không khuyên người phạm sai lầm phải đến trước vị Đạo sư hay người đồng phạm hạnh có trí trình bày sự sai lầm của mình, vì sự sai lầm đó chỉ xuất hiện trong ý thức chưa thể hiện qua hành động, do vậy tự mình ăn năn sám hối là đủ rồi.

Qua đoạn kinh vừa dẫn trên, theo tôi nó có liên quan đến cách Sám hối trong Phật giáo Đại thừa mà mỗi người chúng ta đang tu tập, do vậy chúng ta cần lưu ý 3 vấn đề̀: (a) Phản tỉnh, (b) Trình bày với bậc Đạo sư hay đồng phạm hạnh có trí, (c) phòng hộ trong tương lai.

1. Phản tỉnh

Phản tỉnh là sự quan sát, xem xét lại những hành vi đã qua, thuộc về những việc đã xảy ra trong qua khứ. Tại sao đức phật phải khuyên ta ‘phản tỉnh’ ? Một trong những lý do chính đáng là, chúng ta quá hời hợt với cuộc sống chính mình, việc gì chúng ta đã làm, dường như không muốn lưu tâm suy xét về nó, cho rằng cái gì đã qua thì cho nó qua dù việc đó là việc tốt hay xấu. Theo tôi cách suy nghĩ như vậy không phù họp với lời dạy của đức Phật, vì mặt dù ngài khuyên dạy chúng ta ‘Quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng…,’9 nhưng ý nghĩa lời dạy này không mang ý nghĩa đức Phật khuyên chúng ta: ‘không nên phản tỉnh quan sát hay kiểm tra lại những việc làm trong quá khứ hay việc sẽ làm ở tương lai. Với ý nghĩa của bài kinh này đức Phật chỉ khuyên chúng ta không nên vì chuyện đã qua mà khổ, vì chuyện tương lai mà sanh ưu sầu, vì chuyện đã qua chúng ta có nuối tiếc cũng không được gì, còn chuyện tương lai thì lại chưa đến mà cuộc sống luôn luôn chuyển dịch theo từng sát na để có một cái chính xác như ta đã muốn. Trận sóng thần vừa qua là một chứng minh cụ thể. Như vậy với ý nghĩa của lời dạy này không đồng nghĩa’ không kiểm điểm những hành vi đã qua’. Sự kiểm điểm quan sát này, nó giúp cho con người chúng ta rút ra những kinh nghiệm đáng quí trong quá khứ, có phản tỉnh chúng ta mới biết được lý do tại sao chúng ta vấp phải sự sai lầm này, từ đó nó cho chúng ta một bài học để tránh sự lập lại sự sai lầm trong tương lai. Đây là ý nghĩa và lý do tại sao, đức Phật khuyên chúng ta cần phải phản tỉnh.

2. Trình bày với bậc Đạo sư hay đồng phạm hạnh có trí

Thật ra khi còn là con người, ắt hẳn ai cũng vấp phải những chuyện sai lầm dù ít hay nhiều. Nhưng sự khác biệt giữa người trí và kẻ ngu là thái độ cư xử đối với việc sai lầm đó. Thông thường người trí khi vấp phải sai lầm thì họ thừa nhận sự sai lầm đó, côi đối phương và với tâm mong cầu được sửa đổi. Thế nhưng, kẻ ngu thì ngược lại, luôn luôn lúc nào cũng bưng bít, bằng nhiều thủ đoạn che dấu lỗi lầm của mình và không chấp nhận sửa đổi. Đó là sự khác biệt giữa người trí và kẻ ngu. Ở đây, đức phật khuyên các đệ tử của mình nên học tập thái độ của người trí đó, bằng cách khi biết được mình vấp phải hành vi sai lầm nào đó, cần đem việc đó trình bày với bậc đạo sư hay người đồng phạm hạnh, nhưng phải là người có trí, trình bày sự sai lầm của mình lên họ, để mong họ cho mình những lời khuyên thích đáng, lấy đó làm hành trang cho tương lai. Đó là lý do tại sao đức phật khuyên đệ tử của ngài, khi phạm phi sai lầm cần trình bày với người đồng phạm hạnh có trí. Ý nghĩa này chính là yếu tố mà Phật giáo Đại thừa đã thiết lập hình thức lạy Phật, có nghĩa là chúng ta đối diện trước ngài thành khẩn lễ lạy, mong ngài chứng minh sự thành tâm của mình với một ý thức thật sự muốn sửa đổi lỗi lầm của mình. Đây là điểm mà chúng ta cần lưu ý.

3. phòng hộ trong tương lai

Phòng hộ là thái độ cẩn thận biết bảo vệ, biết giữ gìn. Ở đây, câu ‘phòng hộ trong tương lai’ có nghĩa là cẩn thận giữ gìn, không để cho 3 nghiệp ác tái phạm. Đứng về mặt ngữ nghĩa mà nói, thái độ phòng hộ hay giữ gìn thường được xuất hiện, khi con người vấp phải sự sai lầm nào đó, vì để tránh trường hợp tái diễn cho nên con người cần có thái độ phòng hộ. Thế nhưng, trên thực tế chúng ta vấp phải sự sai lầm, nhưng rất ít người rút kinh nghiệm từ sự sai lầm đó, làm bài học cho tương lai. Do đó, sự sai lầm cứ tiếp tục xảy ra với người đó, nó là một trong những nguyên nhân gây khổ đau cho con người. Đó là lý do tại sao đức Phật khuyên chúng ta cần phải có thái độ phòng hộ hay cẩn thận với 3 nghiệp.

Liên quan đến vấn đề ‘Sám hối’ trong phật giáo Nguyên thủy, chúng ta thấy trong “Kinh Tạp A Hàm” kinh số 347 có đề cập đến vấn đề này, vì để độc giả hiểu rõ pháp sám hối trong Phật giáo đóng một vai trò khá quan trọng trong tiến trình tu tậy nơi đây, tôi xin tôi xin giới thiệu khái quan nội dung kinh này để người đọc có cơ sở tìm hiểu pháp Sám hối trong Phật pháp. Nội dung Kinh 347 này ghi rằng, trong thời đức Phật còn tại thế, các ngoại đạo thường có lòng ganh tị với đạo Phật giáo, vì tăng đoàn của đức Phật được nhà vua, các đại thần, trưởng giả, Bà la môn, cư sĩ cung kính tôn trọng và cúng dường, do đó các ngoại đạo đã sai Tu Thâm là người rất thông minh lén vào trong đạo Phật xuất gia, với mục đích phá hoại đạo Phật. Sau khi Tu Thâm được xuất gia, sống trong chúng tăng, đưa ra những hoài nghi và giải thích không phù họp Phật pháp, làm xáo trộn tăng chúng. Đức Phật đã gọi Tu Thâm giảng dạy Phật pháp và chỉ ra những ác ý này. Sau khi Tu Thâm nghe Phật giảng dạy xong, cảm thấy ăn năn hối hận vô cùng và thành thật xin Sám hối cùng Phật và tăng chúng. Đức Phật chấp nhận sự ăn năn sám hối của Tu Thâm và bảo Tu Thâm nên nói lên những lời ăn năn sám hối như sau:

“Ngày xưa con ngu si bất thiện, vô trí ở trong chánh pháp luật lén xuất gia, ngày nay ăn năng lỗi lầm, tự thấy tội, tự biết tội. trong đời sau sẽ thành tựu luật nghi, công đức tăng trưởng, trọn không thối giảm. Vì sao? Hễ có người có tội tự thấy, tự biết và ăn năn lỗi lầm của mình thì ở đời sau luật nghi sẽ thành tựu, công đức tăng trưởng, trọn không thối giảm”10.

Theo kinh này ghi lại, sau khi sám hối xong, Tu Thâm nhờ vậy được chân chính xuất gia trong với Thế Tôn, nhờ vậy được lơị lạc từ Phật pháp, kiến pháp, đắc pháp và giác ngộ, các lậu hoặc cũng theo đó được đoạn trừ.

Ở đây, chúng ta thử đặt vấn đề, tại sao đức Phật khuyên bảo người phạm tội phải tự mình nói lên những lời ăn năng sám hối này? Không phải trong đạo Phật nói rằng, tâm tạo tội lỗi, đem tâm đó sám hối là được rồi hay sao ? Trên nguyên tắc là như vậy, nhưng chúng ta cần phải xét đến góc độ xã hội, tức là mối quan hệ giữa người với người, hành động sai lầm của chúng ta khi đã được biểu hiện qua thân và miệng, hành vi đó chắc chắn sẽ được nhiều người biết đến, do vậy chúng ta cũng cần bằng lời nói của chính mình công khai sám hối, điều này đồng nghĩa với hình thức xin lỗi của thế gian. Cách làm này có hai ý nghĩa, thứ nhất tự tâm mình cảm thấy an ổn không còn chướng ngại, khi mình đã thật lòng sám hối; thứ hai qua những lời công khai sám hối này, người khác cũng sẽ cảm thông cho mình, và sẵn sàng tạo điều kiện cho mình thăng tiến trong cuộc sống. Có lẽ đó là 2 lý do mà đứt khuyên một người phạm sai lầm cần phải phát lồ sám hối. Cũng vậy, Tu Thâm là người ngoại đạo đã lén lút trà trộn trong tăng chúng xuất gia với ác ý, đã tạo thành sự xôn xao bàn luận trong chúng. Mặt dù, sau khi ông nghe Thế Tôn giảng dạy chỉ ra sự sai lầm của mình. Chính ông đã thức tỉnh, cũng đã bày tỏ sự ăn năn sám hối của mình với đức Thế Tôn, nhưng còn chúng tăng và sự đồn đãi trong xã hội như thế nào, nhất là những người mới vào đạo hay chưa biết gì về đạo, họ sẽ có cái nhìn không tốt thiếu thiện cảm với Tu Thân, sẽ tạo thành những chướng duyên cho cả đôi bên. Trong trường họp này, phương pháp hay nhất Tu Thân tự mình ăn năn sám hối, đng thời công khai sám hối cùng đại chúng. Đó là lý do tại sao phương pháp tu tập trong Phật giáo có pháp sám hối.

Tóm lại, phương pháp sám hối trong đạo Phật nguyên thủy, đức Phật đặc biệt chú trọng phương pháp̣ ‘phản tỉnh 3 nghiệp’, sau khi phản tỉnh hay quan sát cảm thấy 3 nghiệp đã qua của mình không phù hợp với chánh pháp, mang lại sự khổ đau cho mình và người, lập tức phải ăn năn sám hối 3 nghiệp đó, bằng cách nếu đó là ý nghiệp thì tự tâm mình ăn năn sám hối là đủ rồi, nhưng nếu nó là thân nghiệp hay khẩu nghiệp, có nghĩa là những hành vi sai lầm đã được người khác biết đến, người đó cần phải, trước nhất là trình thưa với bậc Đạo sư hay những người phạm hạnh có trí tuệ, đồng thời nếu sự việc sai lầm đó có liên quan đến người khác thì cần phải công khai tự mình nói lên những điều sám hối, để được an lạc cho cả đôi bên, và một điểm quan trọng nữa là sau khi sám hối cần phải thận trọng giữ gìn không tái phạm sự sai lầm đó nữa. Đây là ý nghĩa sám hối trong Phật giáo nguyên thủy.

3. Ý NGHĨA PHÁP SÁM HỐI TRONG KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA

Về mặt hình thức, pháp 'Sám hối' trong Phật giáo Đại thừa khác với Phật giáo Nguyên thủy. Nếu như Phật giáo Nguyên thủy lấy việc thiền quán để kiểm soát 3 nghiệp làm phương pháp tu tập, thì Phật giáo Đại thừa không làm như vậy, lấy việc lạy Phật và miệng tụng đọc danh hiệu Phật hay sám văn làm phương pháp tu tập. Nói một cách khác Phật giáo Nguyên thủy chú trọng 'ý nghiệp', còn Phật giáo Đại thừa chú trọng đến thân nghiệp và khẩu nghiệp, nhưng xét cho cùng cả hai hệ thống kinh điển đều dựa vào 3 nghiệp để tu tập sám hối. Nếu chúng ta muốn tìm hiểu tại sao hai hệ thống kinh điển trong Phật giáo có sự dị biệt này, chúng ta cần chú ý đến đối tượng mà Phật giáo Đại thừa giáo hoá, đó là dành cho tất cả mọi đối tượng trong xã hội từ giới tri thức đến người bình dân, từ người xuất gia đến tại gia, không như Phật giáo Nguyên thủy đối tượng mà đức Phật giáo hoá chính là giới xuất gia, sự khác biệt về đối tượng này chính là nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau về phương pháp giáo dục, đây là một trong những điểm mà chúng ta cần chú ý.

Đối tượng giáo dục là người tại gia, dành cho tất cả mọi thành phần trong xã hội, như vậy chúng ta cũng khẳng định rằng đây là một đối tượng khá phức tạp, đại đa số người trong đó là những người đến với đạo Phật cầu tài cầu phước, hay nói đúng hơn là cầu phước báo hữu lậu, không phải mong cầu sự giác ngộ và giải thoát, nhất là Phật giáo tồn tại và hoằng dương Phật pháp trong nền văn hoá của Bà la môn với những hình thức lễ nghi tôn giáo phức tạp, trong một bối cảnh như vậy, Phật giáo Đại thừa không thể không sử dụng đến cửa phương tiện, gieo trồng hạt giống bồ đề trong xã hội, đề cao vai trò đạo đức, thúc đẩy xã hội phát triển trong trật tự, khuyên dạy mọi người nên lấy việc tụng đọc kinh Phật và thường ngày lễ lạy chư Phật để ăn năn sám hối những lỗi lầm của mình, có lẽ đó là lý do tại sao Phật giáo Đại thừa chú trọng miệng tụng đọc sám văn và thân lễ lạy Phật.

Tuy nhiên, chúng ta không nên căn cứ vào hình thức này mà cho rằng Phật giáo quá chú trọng đến vấn đề lễ nghi là không đúng, vì Phật giáo Đại thừa vẫn lấy tâm làm cơ sở cho việc sám hối, như chúng ta thấy câu kệ sau đây:

Tội từ tâm khởi, đem tâm sám,
tâm được tịnh rồi, tội liền tiêu;
Tội tiêu, tâm tịnh thảy đều không,
Thế mới thật là chân sám hối.

Với nội dung bài kệ này, giải thích phương pháp sám hối trong Phật giáo Đại thừa. Trước hết là câu: " Tội từ tâm khởi, đem tâm sám". Với nội dung và ý nghĩa câu này, trước hết chúng ta cần tìm hiểu khái niệm 'tội'. tội là gì ? tội, thông thường người Phật tử chúng ta được hiểu là những hình thức trừng phạt trong địa ngục như đã được mô tả trong các kinh điển Phật giáo, là kết quả của việc làm bất thiện. Thật ra khái niệm 6 đạo hay 5 luân hồi, nó vốn là khái niệm được sử dụng trong tôn giáo truyền thống của Ấn độ, không phải khái niệm chuyên môn đặc trưng của Phật giáo, đức Phật thấy nó có giá trị và ích lợi trong việc giáo dục, lấy nó làm phương tiện răng đe khuyên dạy con người, cho nên đức Phật đã vay mượn nó để mô tả sự nguy hiểm của hành vi bất thiện của 3 gnhiệp, sẽ dẫn đến nổi khổ cho con người, cũng giống như là nổi khổ trong địa ngục. Lấy hình ảnh trừng phạt trong địa ngục làm hình thức răng đe con người, với mục đích ngăn chận hành vi bất chính của con người, tức là ngăn chận 3 nghiệp ác, nhưng trong 3 nghiệp này ý nghiệp vẫn là nghiệp cơ bản, chỉ đạo cho thân nghiệp và khẩu nghiệp. Từ ý nghĩa này, nó gợi ý cho chúng ta hiểu rằng, khái niệi 'tội' trong câu kệ này đề cập, mang ý nghĩa ngăn chận suy nghĩ bất chính của con người, vì nó là nguồn gốc phát sinh mọi khổ đau. Như vậy, Phật giáo đề cập đến khái niệm 'tội' là đề cập đến nghiệp, đề cập đến nghiệp là đề cập đến 'ý nghiệp; đề cập đến nghiệp là đề cập đến nhân của khổ, đề cập đến tội là đề cập đến kết quả của ác nghiệp. Thế nhưng, tại sao câu kệ này không đề cập đến nghiệp mà lại nói đến khái niệm 'tội' mang ý nghĩa gì ? đây là điểm mà chúng ta cần lưu ý. Để lý giải vấn đề này, chúng ta cần tìm hiểu câu " Bồ tát sợ nhân chúng sanh sợ quả" trong Phật giáo, vì thông thường con người chúng ta thường chú ý kết quả của một hành động hơn là chú ý đến nguyên nhân hay tiến trình hình thành của một sự kiện. Ví dụ, con người thường sợ hãi tù tội hơn là sợ hãi nguyên nhân dẫn đến tù tội. Cũng vậy, con người thường nghĩ đến cái vui nhỏ bé của việc cờ bạc rượu chè hơn là nghĩ đến cái khổ do nhậu của của việc này gây ra, cho nên con người đã lao vào việc cờ bạc rượu chè. Đó chính là lý do tại sao đức Phật thường nêu đến vấn đề tội và phước, khái niệm tội khiến cho chúng sanh sợ hãi, từ đó không làm điều bất thiện, ngược lại khái niệm phước khiến cho chúng sanh cảm thấy vui vẻ thích thú, nó làm động cơ thúc đẩy cho chúng sanh làm việc lành, nếu không có hai khái niệm này, chúng sanh sẽ không thích làm việc thiện và từ bỏ các việc ác.

Như vậy câu "Tội từ tâm khởi, đem tâm sám" có ý nghĩa rằng, tất cả các nghiệp ác ở trong hiện tại hay ở vị lai mà chúng ta phải gánh lấy đều do tâm của chúng ta tạo ra. Cái tâm này chính là nguồn gốc của tất cả nghiệp, nghiệp thiện cũng như nghiệp ác, làm Phật hay làm chúng sanh cũng do tâm này tạo thành. Không ai đủ khả năng cho ta phước đức cũng không ai có quyền đày đoạ ta khổ đau, tự mình quyết định cuộc sống cho chính mình, với tâm tham lam sân hận và ngu si đó là yếu tố trở thành chúng sanh, tự tạo ra cảnh địa ngục; ngược lại với tâm sáng suốt không còn ba độc là nhân tố tác thành một bậc thánh, một vị Phật. Nếu như tâm là nguồn cội của tất cả các nghiệp thiện ác thì những tội lỗi mà chúng ta đang có cũng từ tâm tạo thành, vậy thì chúng ta muốn chấm dứt những lỗi lầm này, cũng phải bắt nguồn từ tâm, có nghĩa là chúng ta cũng phải sửa đổi nó từ ngay trong tâm của chúng ta, không phải là sự sửa đổi bên ngoài, đó là ý nghĩa câu "Tội từ tâm khởi, đem tâm sám". Chữ sám ở đây có nghĩa là sám hối, là ăn năn hối cải những lỗi lầm của mình, không chỉ giới hạn ở việc tụng đọc lời văn sám hối và lễ lạy chư Phật. Việc tụng đọc kinh văn chỉ mang ý nghĩa để cho chúng ta hiểu được lời Phật dạy, thấu rõ những lỗi lầm của mình; Và việc lạy Phật chỉ là hình thức chúng ta đối diện chư Phật chư Bồ tát và đại chúng biểu lộ thái độ thành khẩu ăn năn sám hối những lỗi lầm của mình, không mang ý nghĩa chúng ta lạy một lạy là Phật sẽ trừ cho ta một tội, cũng không có nghĩa việc lễ lạy làm động lòng chư Phật Bồ tát, để các ngài trừ bỏ lỗi lầm cho chúng ta, vì lỗi lầm của chúng ta giảm bớt hay tăng trưởng đều tùy thuộc vào sự sửa đổi của chúng ta, không phải tùy thuộc vào việc lạy lục hay cầu xin. Đây chính là ý nghĩa câu: "tâm được tịnh rồi, tội liền tiêu".

Ở đây, khái niệm 'tịnh' mang ý nghĩa trong sạch, nó là một trạng từ bổ nghĩa cho chữ 'tâm', có nghĩa là 'với tâm trong sạch'. Thế nào gọi là tâm trong sạch ? Tâm trong sạch là tâm không bị lòng tham lam sân hận và si mê nhiễm trước, vì đạo Phật cho rằng, chính tâm tham sân và si này tạo tác các nghiệp ác, nó là tâm ô nhiễm không trong sạch. Như vậy, khi tâm của ta không còn tham sân và si nữa thì các nghiệp ác từ đâu mà có, cho nên nói là 'tội liền tiêu', có nghĩa là sau khi chúng ta sám hối chúng ta nhận thấy rõ sự sai lầm của mình và một lòng sửa đổi sự sai lầm đó, từ đó trở về sau nghiệp xấu đó không tái sanh nữa, đây chính là ý nghĩa của pháp sám hối trong đạo Phật.

Và hai câu cuối cùng là: "Tội tiêu, tâm tịnh thảy đều không. Thế mới thật là chân sám hối". Ý nghĩa hai câu này nói lên quan điểm tư tưởng của Phật giáo Đại thừa. Nếu như chúng ta đứng từ góc độ tư tưởng sử mà nhìn Phật giáo thì sau khi đức Phật nhập diệt vào khoảng hơn 100 năm, trong nội bộ tăng đoàn tranh cãi nhau về '5 việc của Đại Thiên' (Mahàdeva)11 hoặc theo nguồn sử liệu của Phật giáo Nam truyền ghi chép, sau khi Phật diệt độ khoảng 218 năm, nội bộ Phật giáo tranh cải về 'Thập sự phi pháp' 12. Kết quả cuộc tranh cãi này dẫn đến sự rạn nứt, phân chia Phật giáo thành hai phái là Thượng toạ bộ và Đại chúng bộ. Phái Đại chúng bộ là tiền thân của tư tưởng Phật giáo đại thừa. Quá trình hình thành tư tưởng của Phật giáo Đại thừa khá phức tạp, vì tính chất và nội dung của bài viết này có giới hạn, do vậy, ở đây tôi không đi sâu vào điểm này, nhưng đại khái sự hình thành tư tưởng Phật giáo Đại thừa gắng liền với tư tưởng Phật giáo Bộ phái, nhất là tư tưởng của phái Thuyết nhất thiết hữu bộ (Srvastivadin), gọi tắc là Hữu bộ, vì phái này chủ trương, có quan điểm cho rằng: Các pháp trong ba đời đều thật có và vĩnh viễn tồn tại; ngược lại Phật giáo Đại thừa không chấp nhận tư tưởng này cho nên trong hệ thống Kinh Bát nhã đã đưa ra tư tưởng 'Tất cả pháp đều là không' hoặc Long thọ cho rằng: 'Duyên khởi tánh không'. Nói chung Phật giáo đến thời kỳ Bát nhã Long Thọ lấy tư tưởng 'không' phản bát tư tưởng của Phật giáo bộ phái cụ thể là phái Hữu bộ. Qua đó, khái niệm không trong Phật giáo Đại thừa nó có một bối cảnh như vậy, nếu chúng ta muốn tìm hiểu tư tưởng 'không' này, việc cần làm trước tiên là chúng ta cần làm việc so sánh đối chiếu giữa 2 nguồn tư liệu Hữu bộ và Đại thừa, nếu không làm như vậy, ngược lại dùng phương pháp phân tích triết học của Tây phương hay dùng tư tưởng của Lão Trang nghiên cứu tư tưởng Phật giáo đại thừa, theo tôi, đó là việc làm khá mạo hiểm.

Như vậy, khái niệm 'không' được đề cập trong câu kệ này chính là khái niệm không của Phật giáo Đại thừa. Ở đây, nói đến 'tội tiêu, tâm tịnh thảy đều không' là nói đến tinh thần vô chấp hay vô phân biệt của tư tưởng Phật giáo Đại thừa. Thế nào gọi là tinh thần vô chấp vô phân biệt ? Chúng ta muốn hiểu tinh thần này cần phải hiểu khái niệm trí tuệ trong hệ thống kinh điển Phật giáo Đại thừa cụ thể là Kinh Bát Nhã. Trong hệ thống kinh điển này thường mô tả trí tuệ siêu việt của Phật bằng tiếng Phạn là Pra-jña, tiếng Tàu dịch là Bát nhã, tiếng Việt gọi là trí tuệ. Thật ra, từ pra-jña được dịch là 'trí tuệ' thì vẫn chưa mô tả hết ý nghĩa của nó, vì từ này được ghép lại bỡi pra là 'trước' 'trước khi' và jña là thức, hiểu biết, phân biệt..., như vậy, từ pra-jña mang ý nghĩa là 'trước khi nhận thức, trước khi phân biệt...', cái đó được gọi là pra-jña, tức là loại nhận thức, hiểu biết trước khi đối tượng nhận thức xuất hiện, nó khác với ý nghĩa của từ pañña(trí tuệ) trong kinh tạng Pàli hay phái Thượng toạ thường được sử dụng, vì ý nghĩa của từ pañña là một loại nhận thức bao giờ cũng cần có đối tượng nhận thức, có lẽ chính vì vậy mà các nhà dịch thuật Trung Hoa chỉ dịch âm, không dịch nghĩa, do vậy, nếu chúng ta xét từ góc độ tư tưởng thì hai từ này mang nội dung và ý nghĩa không giống nhau, mặt dù chúng ta đều được dịch là 'trí tuệ'.đây là điểm chúng ta đáng được chú ý khi nghiên cứu hai hệ thống kinh điển Đại thừa và Tiểu thừa.

Từ nội dung và ý nghĩa từ pra-jña này, nó gợi ý cho chúng ta hiểu thế nào gọi là 'tội tiêu, tâm tịnh thảy điều không.' Đây chính là mô tả sau khi hành giả thực hành pháp sám hối thành đạt được pra-jña, ở đây chúng ta tạm thời gọi nó là trí tuệ siêu việt, cho nên vị ấy không còn đối tượng nhận thức của cái gọi là 'tội' tiêu' và 'tâm tịnh' nữa, chúng ta thường giải thích là trạng thái vô phân biệt của bậc chứng ngộ, tức là sự nhận thức của pra-jña của Đại thừa, không phải là pañña của thượng tọa bộ.

Đồng thời khái niệm 'không' trong câu 'tội tiêu, tâm tịnh thảy đều không' này, chúng ta không nên hiểu nó như là một khái niệm 'trống không, hư không' mà nên hiểu khái niệm này gắng liền với khái niệm pra-jña, như là sự vô phân biệt, vô chấp trước của bậc giác ngộ, trạng thái đó được gọi là 'không'.

Khi hành giả thực hành pháp sám hối thành đạt được trạng thái pra-jña này, được gọi là sự sám hối tối thượng, cho nên ở đay gọi là 'thế mới thật là chân sám hối'. Thật ra pháp sám hối của Phật giáo Đại thừa, trên căn bản là sự kết họp giữa phương pháp sám hối của Phật giáo Nguyên thủy và tư tưởng Phật giáo Đại thừa. Đây là ý nghĩa pháp sám hối của Phật giáo Đại thừa.

3. SỰ LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI BIẾT THỰC HÀNH PHÁP SÁM HỐI

Qua sự trình bày về pháp sám hối giữa hai hệ thống kinh điển của Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa hay nói đúng hơn giữa Phật giáo Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ, nó cho chúng ta nhận thức rõ ràng rằng, cho dù chúng ta tu tập sám hói theo truyền thống Phật giáo Đại thừa hay Tiểu thừa đều làm cho cuộc sống càng ngày càng thăng hoa tiến bộ hơn, nó là yếu tố cơ bản xây dựng đời sống an lạc và hạnh phúc, miễn là chúng ta thực hành đúng theo phương pháp sám hối đã được đức Phật chỉ dạy.

Nếu như chúng ta hiểu phương pháp sám hối của Phật giáo có ý nghĩa giúp cho con người tự kiểm soát lại hành vi của chính mình, và khi phát hiện 3 nghiệp thân khẩu và ý đã lỡ làm những hành vi bất thiện, thì sám hối của đạo Phật là phương pháp giúp cho chúng ta làm trong sạch và có trách nhiệm ngăn ngừa các lậu hoặc phát sinh trong tương lai, bằng cách phản tỉnh và có thái độ ăn năn hối hận những lỗi lầm đó.

Nếu chúng ta thừa nhận là con người ai cũng phạm phải sai lầm, thì phương pháp sám hối của đạo Phật có chức năng giúp cho người đó có đủ năng lực làm trong sạch cuộc sống bằng cách nhìn thấy và chấp nhận sửa sai lỗi lầm của mình. Thái độ nhìn nhận và sửa sai là hành vi biết phục thiện, biết hổ thẹn hành vi sai lầm của mình, biểu hiện ý chí cầu tiến, là chiếc áo giáp bảo vệ và ngăn chận không cho 3 nghiệp phát sinh hành vi bất thiện. Nếu như con người sống bằng 3 nghiệp thiện thì đó là nền tảng để xây dựng đời sống hạnh phúc của thế gian và cũng là nhân tố chính để trở thành bậc thánh. Nếu chúng ta bình tâm suy nghĩ, căn cứ từ những kinh nghiệm của đời sống hằng ngày, cho ta thấy rõ điều đó, gia đình mất hạnh phúc là gia đình có đời sống bất chính, thiếu sự hiểu biết cố chấp, không biết phục thiện, không nhìn thấy lỗi lầm của mình, chỉ nhìn lỗi của người, đó là nguyên nhân dẫn đến mất hạnh phúc. Ví dụ, người chồng với lý do chính đáng vì công việc làm ăn thường hay tiếp xúc với sự việc không lành mạnh trong xã hội, dần dần thành thói quen, và xem đó như là việc bình thường, tạo thành sự xào xáo mất hạnh phúc trong gia đình. Vì bảo vệ hạnh phúc của gia đình người vợ hay cha mẹ, bà con hay bạn bè...khuyên răng người đó, không nên gần gũi với những việc bất thiện ấy nữa, nếu người ấy biết phục thiện, biết ăn năn sám hối những lỗi lầm của mình thì đó là yếu tố để cho mọi người tha thứ, hàn gắng lại vết thương bị đổ vỡ ở trong lòng của mọi người, cũng từ đó mái ấm của gia đình sẽ tái thiết định, tôi tin rằng sẽ kiên cố hơn và hạnh phúc hơn; Ngược lại, khi được người khác khuyên răng chỉ điểm, nhưng không biết phục thiện, ăn năn và sám hối thì đức Phật gọi người đó, không có việc ác nào mà người đó không dám làm, vì đức tính biết xấu hổ biết phục thiện của người đó không còn nữa. Ở đây, thái độ ăn năn sám hối chính là ý nghĩa sám hối trong đạo Phật. Ý nghĩa Sám hối trong đạo Phật không mang ý nghĩa là nghi thức rửa tội như các tôn giáo khác đã làm, mà nó mang ý nghĩa nhận sai và sửa sai, hình thức tụng đọc sám văn chỉ có ý nghĩa giúp cho con người biết được thế nào là việc thiện và thế nào là việc bất thiện, làm tiêu chuẩn cho cuộc sống, để cho con người phân biệt biết được đâu là việc sai và đâu là việc đúng, đồng thời hình thức lễ lạy chỉ biểu hiện thái độ thành thật ăn năn sám hối của mình, không phải là sự van xin năn nỉ để được ngài tha thứ những lỗi lầm của mình, vì học thuyết nhân quả nghiệp báo của nhà Phật đã nói rõ tính công bằng giữa nhân và quả.

Như vậy, pháp sám hối của nhà Phật chỉ có giá trị giúp sức cho con người có đủ sức mạnh để vượt qua những mặt cảm về tâm lý xã hội, hướng dẫn con người thấy rõ vịệc tội lỗi của chính mình, và ngăn chận những lỗi lầm trong tương lai. Nếu như chúng ta thực hành đúng theo lời Phật dạy, như trong hai hệ thống kinh điển, chắc chắn nó sẽ là điều kiện cơ bản để mang lại đời sống hạnh phúc cho gia đình, và nó cũng là nhân tố để hoàn thành đời sống giác ngộ và giải thoát.

4. KẾT LUẬN

Nếu nước bốn bể của đại dương chỉ có một vị mặn thì giáo pháp của Phật tuy có nhiều tông phái, Đại thừa và Tiểu thừa, nhưng tất cả đều có một vị chung là vị giác ngộ và giải thoát, vị đó là đặc tính chung nhất của đạo Phật.

Cũng vậy, dù rằng trên mặt hình thức hai phương pháp sám hối của hai hệ thống kinh điển có khác nhau, nhưng giống nhau về mặt nội dung tư tưởng. Cả hai hệ phái đều lấy ý nghiệp làm nền tảng cho việc sám hối, có nghĩa là xem ý như là nguồn gốc của các nghiệp thiện hay ác, do vậy nghiệp bất thiện cũng do đây mà phát sinh, như vậy việc ăn năn sám hối cũng bắt đầu từ ý nghiệp, tức là thấy rõ nghiệp ác và quyết tâm sửa sai. Cách lễ lạy và tụng đọc sám văn là hình thức biểu hiện sự thành tâm ăn năn sám hối của mình, cũng là cách tu tập mang tính khế lý và khế cơ.

Căn cứ vào những điều đã được trình bày trên, hương pháp sám của Phật không những mang lại cho bản thân người đó có đời sống an ổn, tự tin mà còn là nhân tố mang lại đời sống hạnh phúc cho gia đình, cũng là sự đóng góp không nhỏ cho việc xoá bỏ những tệ đoan xã hội, nêu cao tinh thần có bổn phận và trách nhiệm.

Hơn thế nữa, phương pháp sám hối của đức Phật là nền tảng cơ bản cho những ai muốn thành đạt giác ngộ và giải thoát.

1 Thich Hạnh Bình, “Tìm hiểu Đạo Phật Nguyên thủy” NXB Tôn giáo, Hà nội, 2004.
2 ‘Nếu kẻ nào cố ý tạo nghiệp, Ta nói rằng kẻ ấy phải thọ quả báo, hoặc thọ ngay trong đời hiện tại, hoặc thọ vào đời sau. Nếu tạo nghiệp mà không cố ý, Ta nói rằng người ấy chắc chắn không phải thọ quả báo’. (Viện CĐPH Hải đức dịch, “Kinh Trung A Hàm” tập I, VNCPHVN ấn hành, 1992, trang 137.)
3 Tịnh Minh dịch, “ Kinh Pháp Cú” ‘Phẩm Song Yếu’, Kệc.Nếu nĩo liền theo sau,Như xe theo bị vậy.
4 Xin tham khảo, HT.Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập I, VNCPHVN ấn hành, 1992, trang 112~113.
5 HT.Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập I, VNCPHVN ấn hành, 1992, trang 112~113.
6 Tương đương Hán tạng ‘Kinh La Vân’ thuộc “Kinh Trung A hàm”.
7 HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập II, VNCPHVN ấn hành, 1992, trang 176~178.
8 HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập II, VNCPHVN ấn hành, 1992, trang 181.
9 Xin đọc ‘Kinh Nhất dạ Hiền giả’ trong “Kinh Trung Bộ”, bản dịch của HT. Minh Châu.
10 “Kinh Tạp A Hàm” tập II, VNCPP Việt nam ấn hành, 1994, trang 39.
11 Xin tham khảo "Dị bộ tôn luân luận" Đại chánh tân tu Đại tạng kinh, quyển 49.
12 Xin tham khảo "Kathàvatthu".

Thứ Hai, 10 tháng 9, 2012

Tìm hiểu về sám hối



Viết bởi Hướng Thiên 


1. Giới thiệu

Kinh Đại Bát-niết-bàn có nói: “Thế gian có hai hạng người dũng mãnh, thứ nhất là người không làm ác, thứ hai là người đã làm ác mà biết hối lỗi”. Sống trên cuộc đời này mấy ai không phạm phải điều sai quấy, điều quan trọng là phải nhận thức và sửa đổi những lỗi lầm mình đã phạm, có như thế thì cuộc sống mới càng ngày càng tốt đẹp hơn. Đối với người xuất gia, muốn thực hiện con đường giải thoát thì phải hộ trì Thánh giới đã thọ không để cho bị hủy phạm, nếu Thánh giới bị hủy phạm khiến cho giới thể bị ô nhiễm thì cần phải làm cho thanh tịnh trở lại.

Lại nữa, các hành vi thiện ác của chúng ta vốn không mất đi mà nó chỉ chuyển sang một dạng tồn tại khác dưới hình thức những năng lực tiềm tàng gọi là nghiệp. Nghiệp ấy Đức Phật dạy: “Một khi nghiệp đã được tạo thì trăm ngàn kiếp không mất đi, chỉ chờ điều kiện thuận tiện là phát hiện thành quả”. Vì nghiệp là năng lực dẫn sanh quả báo, cho nên người học Phật cần phải biết cải thiện nghiệp của mình. Xuất phát từ hai lý do hộ trì Thánh giới và tiêu trừ nghiệp này mà Đức Phật thiết lập phương pháp sám hối.

2. Định Nghĩa

Sám hối có nghĩa là ăn năn thừa nhận lỗi lầm của mình và thề không tái phạm nữa. Trong Phật Giáo, sám hối có một ý nghĩa tu tập đặc biệt quan trọng và tuyệt nhiên không mang bóng dáng thần quyền như nhiều người lầm tưởng. Hơn nữa, bên cạnh ý nghĩa tu tập thuộc lĩnh vực tâm linh, sám hối còn có ý nghĩa chữa trị của lãnh vực tâm lý.

Về mặt từ nguyên, sám hối vốn có nghĩa là thuyết tội (Skt: āpatti-deśanā) hoặc thuyết ác (Skt: pāpa-deśanā[7]), tức là nói lên những lỗi lầm hay việc làm phi pháp của mình, trong Luật tạng thường gọi là phát lộ. Khi phân tích từ “sám hối”, ngài Nghĩa Tịnh nói rằng “sám” là lược âm của tiếng Phạn kṣama, đúng âm là sám-ma, nghĩa là khoan thứ hoặc xin được khoan thứ; “hối” là tiếng thuần Hán, nói đủ là hối quá, là dịch nghĩa từ āpatti-deśanā[8] của tiếng Phạn. Như vậy, hai chữ “sám” và “hối” không đồng nghĩa với nhau mà chỉ có mối liên hệ gần nhau thôi. Có người nói “hối” là dịch nghĩa của chữ sám-ma, điều đó không hợp với sự phân tích trên.

3. Phân Loại

Sám hối ngoài việc được áp dụng như biện pháp xử trị những hành vi trái phạm giới luật để duy trì tính hòa hợp và thanh tịnh của Tăng còn là một phương pháp tu tập cho cả hai giới xuất gia và tại gia. Sám hối vì thế đã trở thành một khía cạnh quan trọng không thể thiếu trong Phật Giáo. Vì tính chất quan trọng đó cho nên các nhà giảng giải Kinh Luật thường phân sám hối thành nhiều loại để vấn đề dễ hiển bày. Sau đây là một vài cách phân loại thường gặp cùng với khả năng diệt tội của nó.
· Chế giáo sám và hóa giáo sám

Theo sự phán giáo của các nhà Luật sư, quá trình giáo hóa của đức Thế Tôn được chia thành hai phần: chế giáo và hóa giáo. Chế giáo là tùy trường hợp phạm tội mà nói pháp, tức là chế giới, hay là Luật tạng. Hóa giáo là vì tất cả chúng sanh mà phân biệt giảng thuyết về các pháp như nhân quả, lý sự..., đó là Kinh tạng. Căn cứ vào sự phán giáo này, các Luật sư phân sám hối thành hai loại: chế giáo sám và hóa giáo sám (còn gọi là chế giáo nghi và hóa giáo nghi).

Chế giáo sám là phương pháp sám hối dùng cho trường hợp phạm giới, đó là các phương pháp xử trị đã được quy định trong giới bổn của người xuất gia, loại này chỉ giới hạn trong Tăng. Chế giáo sám bao gồm 3 loại: 1/ Chúng pháp sám: là sám hối tội lỗi của mình trước Tăng, Tăng ở đây gồm 4 vị hoặc 20 vị tùy theo trường hợp mà luật quy định rõ. 2/ Đối thủ sám: là đối trước một vị đồng tu mà phát lộ lỗi lầm của mình, như trường hợp phạm ba-la-đề-đề-xá-ni. 3/ Tâm niệm sám: tức phạm những lỗi nhỏ nhặt chỉ cần tự hối trong tâm là được, như trường hợp phạm tội đột-kiết-la.

Hóa giáo sám là sám hối về các hành vi ác chung chung, tức là sám hối về bất thiện nghiệp đạo, áp dụng cho cả xuất gia và tại gia. Hóa giáo sám thì có nhiều loại, đó là các phương pháp sám hối đã được Kinh hoặc Luận đề cập đến với mục đích giúp hành giả dần dần tiêu trừ các pháp chướng đạo; bao gồm tụng kinh, bái sám, quán tưởng... Như kinh Phật Danh dạy phương pháp sám hối 3 chướng là phiền não chướng, nghiệp chướng và quả báo chướng; Kinh Hoa Nghiêm nói đến sám hối 4 chướng là hoặc chướng, nghiệp chướng, báo chướng và kiến chướng; Luận Phật Tính cũng nói đến sám hối 4 loại chướng ngại Phật đạo là chán ghét đại thừa, chấp trước thân kiến, sợ sanh tử và không ưa thích việc lợi tha; Kinh Đại Thừa Tam Tụ nói đến sám hối 5 chướng là nghiệp chướng, phiền não chướng, chúng sanh chướng, pháp chướng, chuyển hậu thế chướng.

Trong hai cách sám hối này thì chế giáo sám là sám hối theo Luật tạng, hóa giáo sám là sám hối theo Kinh Luận. Sám hối theo Luật tạng là sám hối tội phá giới, sám hối theo Kinh Luận là sám hối hành vi vi phạm nghiệp đạo. Vì thế người xuất gia khi phạm giới thì cần phải thực hiện cả hai cách sám này, đặc biệt là bắt buộc phải thực hành chế giáo sám hối, có sám hối theo Luật thì giới thể mới trở lại thanh tịnh, mới hòa hợp với Tăng. Riêng người tại gia thì chỉ áp dụng hóa giáo sám. Bởi vì, người tại gia dù có thọ giới như ngũ giới hoặc thập thiện nhưng đó là những giới có tính cách học tập, khuyến thiện chứ không bắt buộc và không có tính quy định của tập thể. Khi một người tại gia phạm phải điều ác, dù điều đó đã được kể đến trong giới cấm mà họ đã thọ, thì việc ấy không thể bị xem là phạm giới cần phải đưa ra trước Tăng hay một hội đồng giám luật nào để xử trị, họ chỉ vi phạm nghiệp đạo, chỉ cần sám hối để tiêu nghiệp.
Ba loại sám hối

Theo Kim Quang Minh Kinh Văn Cú, Tứ Phần Luật Hành Sự Sao Tư Trì Ký, Thiên Thai Tứ Giáo Nghi Tập Chú, có 3 loại sám hối là: tác pháp sám hối, thủ tướng sám hối và vô sanh sám hối. 1/ Tác pháp sám hối: là phương pháp sám hối vận dụng cả thân, miệng, ý. Thực hành sám pháp này thì thân phải lễ bái, miệng phải tụng đọc, ý phải tư duy. 2/ Thủ tướng sám hối: là quán tưởng tướng hảo của chư Phât, Bồ Tát mà diệt được tội. 3/ Vô sanh sám hối: lá quán hết thảy các pháp vốn không, tội từ tâm khởi, tâm ấy đã không nên tánh tội không có, tánh tội không nên tội cũng không.

Theo Kim Quang Minh Kinh Văn Cú và Thiên Thai Bồ Tát Giới Sớ thì tác pháp sám hối thuộc về phạm trù giới, chỉ diệt già tội mà không diệt được tánh tội[9]. Thủ tướng sám hối thuộc về phạm trù định, diệt được cả già tội và tánh tội. Vô sanh sám hối thuộc về phạm trù tuệ, có khả năng diệt trừ vô minh.
Sự sám và lý sám

Sám hối còn được nhìn từ hai mặt sự-lý mà phân thành sự sám và lý sám. Sự sám là nói tất cả nghi thức sám hối của chế giáo cũng như hóa giáo, tức là sám hối có biểu hiện hình thức bên ngoài. Lý sám cao hơn một bậc, là dùng trí quán chiếu thật tướng của các pháp mà diệt trừ được tội. Sự sám tương đương với tác pháp sám và thủ tướng sám, lý sám tương đương với vô sanh sám. Theo Tứ Phần Luật San Bổ Tùy Cơ Yết Ma thì sự sám chỉ nhiếp phục nghiệp cho dễ trừ, chỉ có lý sám mới đủ sức diệt nghiệp[10].

4. Tính thực tiễn của sám hối

Nói đến tính thực tiễn của cái gì là nói đến những lợi ích thiết thực mà nó đem lại. Bất kỳ một pháp gì tồn tại đều có tác dụng của nó, cũng như một người đi thì phải có đi đâu, làm thì phải có làm gì. Sám hối cũng vậy, cũmg mang đến những lợi ích thiết thực cho người thực hành. Vậy sám hối có những ích lợi gì? Trước hết, sám hối có tác dụng tích cực như là một phương pháp tu tập xét trên bình diện tâm linh. Thứ đến, sám hối có tác dụng chữa trị thuộc lãnh vực tâm lý.
· Về mặt tâm linh, sám hối đóng vai trò như một pháp môn tu tập giúp hành giả đạt được những bước tiến trên con đường giác ngộ giải thoát.

Ích lợi đầu tiên ở trong lĩnh vực tu tập mà mọi người đều thấy là khôi phục giới thể thanh tịnh cho người phạm giới. Nếu một người phạm các điều khoản của giới mà không phát lộ sám hối trước Tăng, tức là sám hối theo chế giáo nghi, thì giới thể bị ô nhiễm. Kinh nói giới có thanh tịnh thì mới phát sinh thiền định, có thiền định mới có trí tuệ. Giới thể này là năng lực phòng phi chỉ ác được phát sinh trong quá trình cầu thọ giới, nó có chức năng ngăn không cho các pháp hữu lậu xâm nhập vào tâm. Chỉ có sám hối mới có khả năng khiến cho giới thể đã bị nhiễm ô trở lại thanh tịnh.

Lợi ích thứ hai trong lãnh vực tâm linh là tiêu trừ nghiệp. Xét hành vi phạm giới có hai yếu tố, đó là phạm giới đối với Tăng - tức là đi ngược lại với những giao ước sống chung của Tăng, và phạm nghiệp đạo. Yếu tố phạm giới thì trên đã nói, nó chỉ giới hạn ở hàng ngũ xuất gia. Yếu tố phạm nghiệp đạo thì bao quát cả Tăng lẫn Tục. Sám hối theo chế giáo nghi thì giới thể được thanh tịnh trở lại, thế nhưng nghiệp đạo đã phạm vẫn không mất, bởi vì chế giáo căn cứ trên tướng. Chỉ có sám hối theo hóa giáo nghi thì nghiệp đã tạo mới được tiêu trừ do hóa giáo thuộc phạm trù tánh. Vì vậy, thực hành các phương pháp sám hối theo Kinh Luận (hóa giáo nghi) như tụng kinh, bái sám, quán tưởng sẽ giúp hành giả dần dần tịnh hóa nghiệp của mình.

Ngoài ra, các phương pháp sám hối mà Đức Phật nói trong Kinh còn là thời khóa tu tập để tăng cường giới định tuệ. Trong khi tu pháp sám hối, thân thì lễ bái, miệng thì đọc tụng, đó là tương đương với giới (tác pháp sám hối); tâm ý chuyên chú vào đối tượng như Phật, Bồ tát, đó là tương đương với định (thủ tướng sám hối); nếu hành giả dùng tâm ý quán chiếu thực tánh của các pháp để diệt trừ vô minh thì sám hối ấy tương đương với tuệ (vô sanh sám hối). Sám hối vì thế trở thành trợ duyên cho 3 môn học giới định tuệ tăng trưởng.
· Về mặt tâm lý, sám hối theo Luật tạng (chế giáo sám) có công năng như một biện pháp chữa trị, nuôi dưỡng một tâm hồn thanh cao.

Với đạo Phật, người sám hối là người đang cần sự giúp đỡ của Tăng chứ không phải thú nhận tội lỗi để chịu tội hay được tha thứ (xá tội). Thông thường trong các tôn giáo khác, khi nói đến sám hối thì mọi người đều nghĩ ngay đến ý niệm “tội” như là hành vi không vâng lời đối với đấng tối cao như Chúa, Thượng Đế...; thế nhưng “tội” trong đạo Phật không phải như vậy[11]. Phật Giáo không quan niệm có một đấng toàn năng với quyền uy tuyệt đối và một chiều như là đấng “Sáng tạo” để ban phước dáng tội cho con người cho nên không có khái niệm “tội” như là hành vi trái phạm đối với vị ấy. Chữ “tội” mà chúng ta đề cập đến ở trong phần sám hối này, theo quan niệm của Phật giáo, chỉ có nghĩa là những hành vi xấu ác, tính xấu ác này là dựa trên tính chất căn bản của nghiệp được tạo. Chữ “tội” tiếng Phạn là āpatti, có nghĩa là “cái bị rơi”, do động từ “pat” (rơi, đi xuống) mà thành. Như thế, người phạm tội là người không theo kịp mọi người, bị rơi từ chỗ cao xuống chỗ thấp do phạm phải các điều xấu ác. Cũng như trong một lớp học, phần lớn học sinh theo kịp bài nên cuối năm được lên lớp, thế nhưng bên cạnh đó vẫn có một số ít không theo kịp nên phải lưu ban hoặc bỏ học. Đối với những người “bị rơi” như thế - tức là những người yếu đuối, sự giúp đỡ từ những người “không bị rơi” là điều rất cần thiết, cho nên họ phát lộ lỗi lầm của mình trước Tăng (những người không bị rơi) để cầu xin năng lực nâng đỡ. Thông qua năng lực nâng đỡ từ những lời giáo giới của Tăng và sự thánh thiện phát ra[12] từ bản thân Tăng, thiện pháp (ý chí làm lành lánh dữ) ở trong con người lầm lỗi ấy sẽ tăng thêm. Đây chính là một ý nghĩa rất quan trọng mang tính chữa trị tâm lý của việc sám hối.

Lại nữa, xét về tâm lý, người phạm tội luôn mang cảm giác bứt rứt, hối hận - gọi là cảm giác tội lỗi - khiến cho tâm họ không được an ổn (đây chính là lý do mà Luật nói những người phạm giới nặng mà không phát lộ sám hối thì không nhập định được). Hơn nữa, những cảm giác xấu ấy nếu trải qua lâu ngày mà không được giải tỏa sẽ chuyển thành trạng thái mặc cảm dưới dạng vô thức và tiếp tục ảnh hưởng đến tâm thái của người phạm tội. Theo Phân tâm học thì chính mặc cảm vô thức này góp phần đưa đến những cảm xúc và hành xử có tính bất bình thường (dysfunctional feelings and behaviors) cần được chữa trị. Trong chừng mực nào đó, sám hối là giải tỏa cái tâm lý đang bị dồn nén ấy (phát lộ hay thuyết tội). Cũng như một người khi có điều muốn nói mà chưa nói ra được do vì e ngại hoặc không có đối tượng để tỏ bày thì trong lòng cứ thấy bồn chồn, tâm trạng cứ như là “ngồi trên lửa”.

Cuối cùng, sám hối là dùng hai tâm sở thiện tàm và quý để đối trị hai tâm sở bất thiện vô tàm và vô quý, tức là lợi dụng tâm lý xấu hổ để khống chế những hành vi xấu ác, đưa hành giả tới chỗ toàn thiện.

5. Kết luận

Đến đây, hẳn chúng ta thắc mắc một điều: liệu sám hối rồi tội có hết không? Để trả lời nghi vấn này chúng ta phải dựa vào tam tạng giáo điển. Nếu xét về yếu tố phạm giới, các bộ Luật đều khẳng định sám hối như pháp thì giới thể trở lại thanh tịnh như cũ. Riêng yếu tố phạm nghiệp đạo thì rõ ràng là không đơn giản. Các Kinh thường nói sám hối thì nghiệp được tiêu trừ, thế nhưng không phải sám hối là nghiệp mất hết không còn phải chịu quả báo. Ngài Long Thọ khẳng định trong Thập Trụ Tỳ-bà-sa luận rằng: “Ta không nói sám hối thì nghiệp tội diệt hết không còn quả báo; ta chỉ nói sám hối thì tội giảm nhẹ, thời gian lãnh thọ ngắn hơn”[13].

Nói tóm lại, sám hối là một phương pháp gội rửa tâm có vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. Nhìn từ khía cạnh chế giáo, sám hối mang tính cưỡng bức và thuộc tác trì môn, mục đích của nó là đem lại sự thanh tịnh và hòa hợp trong Tăng theo tinh thần quy ước của Giới Luật. Người phạm giới sau khi sám hối đúng pháp theo Luật thì giới thể trở lại thanh tịnh như cũ, tất nhiên chỉ với những tội Luật cho sám hối[14]. Lại nữa, bên cạnh yếu tố phạm giới còn có yếu tố phạm nghiệp đạo, phạm nghiệp đạo thì không thể sám hối theo Luật mà hết được, phải sám hối theo Kinh hoặc Luận. Nhìn từ phương diện Kinh Luận, tức là khía cạnh hóa giáo, sám hối mang tính tự nguyện và dựa trên tính chất căn bản của nghiệp đạo, mục đích của nó là tiêu trừ nghiệp, giúp hành giả thăng tiến trên con đường giải thoát.
-------------------------------
[7] John Bowker, The oxford dictionary of world religions, Oxford University Press, 1997, trang 230.[8] Chữ Hán: 阿鉢底提舍那 (A-bát-để-đề-xá-na): Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ-nại-da, q15 (Đại 23, trang 0706a).[9] Tánh tội: là các hành vi xấu ác thuộc về bản chất, như các hành vi giết người, dâm dục, trộm cướp, nói dối thì dù ở hoàn cảnh nào cũng bị xem là ác. Trái lại, có một số hành vi vốn không nhất định là xấu hay tốt, xấu hay tốt là tùy theo quan niệm, tập tục hay quy ước của mỗi cộng đồng mà thành, như uống rượu chẳng hạn; những hành vi như thế một khi bị xem là xấu ác thì được gọi là già tội.[10] Tứ Phần Luật San Bổ Tùy Cơ Yết Ma, Sám Lục Tụ Pháp thiên (Đại 40, trang 0506c).[11] Với Do Thái giáo, tội là sự bỏ qua hoặc không vâng theo ý muốn của Thượng Đế (Yahweh)(sin is passing over or rejection of the will of God). Với Cơ-đốc giáo (Christianity), tội nói chung là những gì đã tách con người ra khỏi Thượng đế, trong đó tội tổ tông (original sin) là trường hợp điển hình; ngoài ra, không tin Chúa Jesus cũng được xem là một tội nặng. Với Hồi giáo, tội chủ yếu là sự làm trái ý Thượng đế (Allah). Nói chung, trong các tôn giáo Nhất thần (Monotheism) thì tội là vấn đề liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vị Thần linh được tin tưởng.[12] Sức mạnh thánh thiện phát ra từ những vị có giới đức này tạo thành một lực trường (field of force) có khả năng ảnh hưởng đến những người khác, cũng giống như khái niệm từ trường (magnetic field) trong Vật lý học.[13] Thập trụ tỳ-bà-sa luận, phẩm Phân Biệt Công Đức, q6 (Đại 26, số 1521, trang 48c).[14] Luật quy định, ngoại trừ 4 pháp ba-la-di, tất cả các hành vi phạm giới khác đều được phép sám hối.

Hướng Thiên
http://daitangkinhvietnam.org/nghien-cuu-phat-hoc/phat-hoc-can-ban/3237-tim-hieu-ve-sam-hoi.html

Thành tâm sám hối

Bất cứ ai hiện hữu trong cuộc đời này cũng đều có thể phạm phải những lỗi lầm, sai sót dù ít hay nhiều. Bởi khi tâm ý mê mờ, thiếu sáng suốt thì mọi hành động, nói năng của ta rất dễ dàng vấp phải những lầm lỡ, sơ suất gây khổ đau cho bản thân và ảnh hưởng không tốt đến người khác. Đó là lẽ đương nhiên. Do vậy, thành tâm ăn năn các tội lỗi mà mình đã tạo ra, và lập nguyện đừng để cho những hành vi sai trái tái diễn là việc làm đáng được mọi người trân trọng, quý mến và noi theo.




Sám hối là hành động tích cực, hướng tâm về nẻo thiện, không chạy trốn sự thật và khao khát được sửa đổi bản thân để thăng hoa cuộc sống. Nói cách khác, sám hối là tẩy sạch các cấu uế tội lỗi giúp cho thân tâm trong sáng, an tịnh và mới mẽ. Sám là từ bỏ những lỗi lầm mà trước đó chúng ta đã vi phạm. Hối là phát nguyện từ nay về sau không bao giờ lặp lại các hành vi thiếu ý thức như trước đây và đồng thời thay đổi cái nhìn tích cực, bao dung hơn đối với muôn loài trong thực tại. Như vậy, sám hối là việc làm cụ thể, thiết thực mà mỗi người cần phải thực thi để đem lại lợi ích an vui cho tự thân và cho cuộc đời này.

Trong thực tế, có những người mắc phải tội lỗi nặng nề hầu như vô phương cứu chữa. Họ sống với tâm trạng sợ hãi lo âu, ăn không ngon ngủ chẳng được yên vì những cơn ác mộng kéo dài. Mặc dù họ có của cải vật chất dư thừa nhưng đời sống thì lại cô đơn trống vắng vì chẳng có ai muốn đến gần tiếp xúc và chuyện trò. Tuy nhiên, mọi thứ trên cuộc đời này đều có thể thay đổi, không có gì thực sự cố định cả. Do đó, đối với những người làm điều bất thiện nhưng họ biết thành tâm ăn năn hối cải và quyết chí tu hành thì vẫn có thể chuyển hóa được nghiệp xấu ác, trở thành một con người lương thiện hữu ích cho gia đình và xã hội.

Kinh Trung bộ II có đề cập đến sự kiện Đức Thế Tôn hóa độ cho tên sát nhân khét tiếng Angulimala (Vô Não). Angulimala là tên giết người không gớm tay, sau khi hạ sát người nào hắn chặt ngón tay để xâu thành một tràng chuỗi và đeo vào cổ. Angulimala sống đơn độc trong rừng núi, mỗi khi xuất hiện thì dân chúng đều kinh hãi. Hành động của Angulimala quả thật độc ác, giết hại rất nhiều người, không một ai có thể chấp nhận và tha thứ. Nhưng có lẽ Angulimala vẫn còn chút phước đức từ nhiều kiếp lâu xa trong quá khứ nên đã may mắn gặp được Thế Tôn và được Ngài khai thị về ý nghĩa đạo lý làm người. Nhờ vậy, Angulimala có cơ hội sám hối tội lỗi đã gây tạo và phát nguyện xuất gia tu hành, sau một thời gian Angulimala chứng được quả vị A-la-hán.

Thế giới ngày nay cũng có những hạng người điên loạn như thế, họ đi khủng bố khắp nơi, khiến cho dân chúng cứ mãi phấp phỏng lo âu, sợ hãi. Hiện nay, các nước trên thế giới ngoài việc đầu tư ngân quỹ để phòng chống bão lụt, động đất, sóng thần liên tục xảy ra, còn phải hao tốn khá nhiều tiền của vào việc ngăn ngừa nạn khủng bố, ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế toàn cầu. Thật là xót thương cho những hạng người mang phải nghiệp chướng nặng nề như thế! Giá mà các vị ấy biết ăn năn, sám hối tội lỗi như Angulimala, buông bỏ khí giới và quay về nẻo thiện thì nhân loại sẽ được an bình hạnh phúc biết bao.

“Bao nhiêu lầm lỗi cũng do tâm

Tâm tịnh còn đâu dấu lỗi lầm

Sám hối xong rồi lòng nhẹ nhõm

Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong”.

Đức Thế Tôn dạy rằng, có hai hạng người đáng được tán thán khen ngợi là kẻ có trí. “Này các Tỳ-kheo, có hai loại người có trí. Thế nào là hai? Người có phạm tội là thấy có phạm tội, và người chấp nhận người khác như pháp phát lộ tội của mình. Này các Tỳ-kheo, có hai loại người có trí này” (KinhTăng chi bộ, chương 2, phẩm Người ngu).

Thực chất, trừ các bậc Thánh đã toàn thiện, còn chúng ta, sống trong đời này không ai tránh khỏi lầm lỗi, vụng dại. Do đó, điều quan trọng là mỗi người phải tự nhận biết những hành động sai trái của mình đã gây tạo mà sám hối, chừa bỏ. Nguyện giữ tâm hồn cho trong sáng, dù chỉ một vết lỗi nhỏ nhặt cũng đừng để vi phạm thì đó chính là hành động của người có trí tuệ.

“Chớ xem thường lỗi nhỏ

Mà cho là không nguy

Giọt nước nhỏ li ti

Dần dần đầy chum lớn”.

Tuy vậy, có không ít người vẫn thiếu ý thức về vấn đề này. Người ta không muốn hối lỗi, cầu tiến mà phó thác cuộc đời của mình cho số phận định đoạt. Khi tạo ra cái nhân xấu ác thì họ không biết nghĩ đến hậu quả phải trả ở ngày mai. Dù biết rằng, việc làm ấy hết sức sai trái nhưng họ vẫn cứ mặc nhiên tạo tác ác nghiệp, đến khi hệ quả khổ đau được hình thành thì người ta lại kêu trời trách đất và đổ lỗi cho số phận, do trời đã định, v.v… quả thật là mâu thuẫn. Mặt khác, có những người sám hối theo kiểu van xin cầu nguyện, họ tìm đến những nơi gọi là “linh thiêng” để cầu khẩn van xin, hoàn toàn nhờ vào tha lực với mục đích mong muốn được chạy tội. Những hành động mê mờ như thế chỉ tạo thêm cái lỗi lừa dối chính mình, khiến cho lòng tham muốn ngày càng bành trướng thêm hơn.

Thực ra, sám hối không phải là việc làm mang tính chất cầu khẩn van xin, mà phải thực sự thành tâm ăn năn sửa đổi lỗi lầm, biết hổ thẹn với chính mình khi lỡ gây tổn hại cho kẻ khác. Cụ thể hơn, chúng ta cần phải siêng năng học hỏi đạo lý, để thấu hiểu lời Phật dạy và thực hành trong mọi lúc mọi nơi. Khi đi đứng, lúc nằm ngồi, ăn cơm rửa bát, lái xe, quét dọn nhà cửa, kinh hành niệm Phật, v.v… chúng ta cần phải thường trực chánh niệm tỉnh giác để nhận biết các ý niệm sinh diệt, đến và đi. Khi tâm hồn tĩnh lặng sáng suốt, ta sẽ phát hiện ra được đâu là ác pháp sinh khởi và đâu là thiện pháp, để từ đó mỗi lời nói và hành động của ta đều phát huy đúng mức với lẽ thật, đem lại lợi ích thiết thực cho tự thân và cho cuộc đời này.

Thiết nghĩ, là một con người thì ai cũng mong muốn được an vui hạnh phúc và thích người khác thương yêu, quý trọng mình. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh nghiệp lực đẩy đưa khiến cho ta lâm vào tình trạng bế tắc nghèo khổ, túng thiếu và bất hạnh. Từ đó, ta chán ngán sự đời nên bỏ mặc cho số phận định đoạt và cuối cùng trở thành một con người hư đốn, vô nghĩa. Thực ra, bản chất của cuộc sống vốn dĩ vô thường; thân tâm và hoàn cảnh đều được thay đổi trong từng giây từng phút. Chúng luôn luôn thay đổi theo hai chiều hướng khác nhau, một là theo chiều hướng tiêu cực và thứ hai là tích cực. Nếu ta thường xuyên tiếp xúc với các đối tượng không lành mạnh thì sẽ đi theo chiều hướng tiêu cực và dĩ nhiên là dẫn tới khổ đau, hệ lụy. Ngược lại, theo chiều hướng tích cực là ta biết gần gũi và học hỏi với những người có phẩm chất đạo đức cao đẹp. Và chính vì sự thay đổi tự nhiên đó, cho nên những người nghèo khổ vẫn có thể giàu sang sung sướng và kẻ bất nhân, hung tàn cũng có thể trở nên hiền lương đạo đức. Miễn là, ngay trong hiện tại họ biết khắc phục những lỗi lầm và tiếp xúc với các bậc thiện tri thức để học hỏi, noi gương thì chắc chắn đời sống của họ sẽ được chuyển đổi theo hướng đi sáng đẹp.
Để trở thành một con người lương thiện, sống đời hạnh phúc an vui, chúng ta cần phải thành tâm sám hối về những hành động lầm lỡ của mình bằng những việc làm cụ thể ngay trong đời sống thường nhật. Vận dụng hết khả năng của tự thân để làm lợi ích cho cuộc đời bằng cách bố thí tài vật cho kẻ cơ nhỡ thiếu thốn, cúng dường Tam bảo, hiến tặng niềm vui cho người, v.v… và vấn đề quan trọng hơn hết chính là sống chánh niệm tỉnh giác trong mỗi giây phút. Khi ta thực hành phước huệ song tu một cách trọn vẹn như thế thì nghiệp chướng tiêu trừ, thiện căn tăng trưởng, vượt thoát mọi ràng buộc khổ đau và đạt được niềm an vui giải thoát ngay trong đời sống hiện tại.

Viên Ngộ