Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia
Quán Thế
Âm (zh. 觀世音, sa. avalokiteśvara, ja. kanzeon; bo. spyan ras gzigs སྤྱན་རས་གཟིགས་), cũng
gọi là Quán Tự Tại, Quan Âm, là một trong những vị Bồ Tát (sa. bodhisattva)
quan trọng nhất trong Đại thừa (sa. mahāyāna). Có nhiều luận giải khác nhau về
nguyên nghĩa tên ngài. Có người hiểu “īśvara” là một “người nam” quán chiếu thế
giới, có người hiểu “svara” là “Âm”, tức là vị Bồ Tát lắng nghe mọi tiếng thế
gian.
Nhìn
chung, Quán Thế Âm là thể hiện lòng Bi (sa., pi. karuṇā), một trong hai dạng của
Phật tính. Vì vậy, có khi người ta đặt tên cho Bồ Tát là bậc Đại Bi (sa.
mahākāruṇika). Dạng kia của Phật tính là Trí huệ (Bát-nhã, sa. prajñā), là đặc
tính được Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi (sa. mañjuśrī) thể hiện. Quán Thế Âm là vị Bồ
Tát thể hiện nguyện lực của Phật A-di-đà (sa. amitābha) và được xem như quyến
thuộc của vi Phật này (Tịnh độ tông). Với lòng từ bi vô lượng, Quán Thế Âm thể
hiện sức mạnh huyền diệu cứu giúp mọi chúng sinh quán tưởng đến mình lúc gặp hiểm
nguy. Trong nhân gian, Quán Thế Âm là vị bảo hộ tránh khỏi tai hoạ và hay được
phụ nữ không con cầu tự.
Trong
các loại tranh tượng về Quán Thế Âm, người ta thấy có 33 dạng, khác nhau về số
đầu, tay và các đặc tính. Thông thường ta thấy tượng Bồ Tát có ngàn tay ngàn mắt,
có khi 11 đầu. Trên đầu có khi có tượng A-di-đà, xem như đặc điểm chính. Trên
tay có khi thấy Bồ Tát cầm hoa sen hồng, vì vậy nên Quán Thế Âm cũng có tên là
Liên Hoa Thủ (người cầm hoa sen, sa. padmapāṇi) hay nhành dương liễu và một
bình nước Cam-lộ (sa. amṛta). Số tay của Bồ Tát biểu hiện khả năng cứu độ chúng
sinh trong mọi tình huống.
Trong
tranh tượng với 11 đầu thì Quán Thế Âm mang 9 đầu của chín vị Bồ Tát, một đầu của
một vị Phật và cuối cùng là đầu của Phật A-di-đà. Cứ mỗi ba đầu tượng trưng là
ba đặc tính: từ bi với chúng sinh khổ nạn, quyết tâm đối trị cái xấu, hoan hỉ với
cái tốt. Theo một cách nhìn khác thì 11 đầu biểu tượng cho mười cấp của Thập địa
và Phật quả.
Đôi lúc
Quán Thế Âm Bồ Tát cũng được trình bày dưới một dạng ít thấy, đó là “Sư Tử Hống
Quán Tự Tại” (獅子吼觀自在, sa. siṃhanāda-lokeśvara). Dưới dạng này, Bồ Tát là một Dược
sư, đặc biệt cứu độ những người bệnh phong cùi (lepra). Mắt Bồ Tát đang nhìn bệnh
nhân và mắt chính giữa (huệ nhãn) đang tập trung chẩn bệnh. Hai bảo vật bên vai
cũng là những dụng cụ của một dược sĩ, bình sắc thuốc bên trái của Bồ Tát và
đao trừ tà (bệnh) bên phải. Sư tử Bồ Tát cưỡi xuất phát từ một sự tích. Tương
truyền rằng, có một con sư tử sinh được một con nhưng con chết ngay sau khi
sinh. Đau đớn quá nó rống lên thật to và nhờ tiếng rống uy dũng này, nó
làm cho con nó sống lại. Vì thế mà có sự liên hệ giữa tên của Sư Tử Hống Quán Tự
Tại (“giọng sư tử”) với nghề nghiệp của một dược sĩ “gọi người sống lại”.
Một
thuyết khác giải thích tích của 11 đầu và nghìn tay: lúc Quán Thế Âm quán chiếu
cảnh khổ của chúng sinh thì đầu Bồ Tát đau xót vỡ ra từng mảnh. Phật A-di-đà xếp
các mảnh đó lại thành 11 đầu. Xuất phát từ nguyện lực cứu độ mọi chúng sinh,
thân Bồ Tát mọc ra nghìn tay, trong mỗi tay có một mắt. Quán Thế Âm cũng hay được
vẽ là một vị Bồ Tát cứu độ chúng sinh trong sáu nẻo Luân hồi (Lục đạo): trong
súc sinh, Quán Thế Âm đầu ngựa, hoặc cưỡi sư tử; trong địa ngục, người có nghìn
cánh tay; trong cõi A-tu-la, người có 11 đầu.
Tại
Trung Quốc, Việt Nam và Nhật, Quán Thế Âm có tên là Quan Âm, hay được trình bày
dưới dạng “Phật Bà”. Tại Tây Tạng, Quán Thế Âm (bo. chenresi [spzan ras gzigs])
là “người bảo vệ xứ tuyết” và có ảnh hưởng trung tâm trong truyền thống Phật
giáo tại đây. Người ta xem Bồ Tát là cha đẻ của dân tộc Tây Tạng và nhờ Ngài mà
Phật giáo được truyền bá qua nhà vua Tùng-tán Cương-bố (bo. songten gampo,
620-649), được xem là một hiện thân của Quán Thế Âm. Đạt-lại Lạt-ma và
Cát-mã-ba (bo. karmapa) cũng được xem là hiện thân của Quán Thế Âm.
Câu Man-tra
OṂ MA-NI PAD-ME HŪṂ được xem là thuộc tính của Quán Thế Âm, là thần chú đầu tiên
truyền đến Tây Tạng và ngày nay được tụng đọc nhiều nhất. Tranh tượng của Bồ
Tát được biểu diễn bằng một người có 11 đầu và ngàn cánh tay hoặc trong dạng có
bốn tay, ngồi toà sen.
Hồng
danh và hóa thân
Trong
Diệu pháp liên hoa kinh, đức Phật Thích ca đã giải thích rõ cho Vô Tận Ý Bồ Tát
về ý nghĩa của danh hiệu Quán Thế Âm là do vị Bồ tát này khi nghe âm thanh của
chúng sanh xưng danh hiệu mình thì bèn tầm thanh để cứu khổ. Nếu có vô lượng
trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não nghe đến danh hiệu Quán Thế Âm Bồ
Tát, một lòng xưng danh Ngài thì ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm bèn xem xét âm
thanh ấy, khiến cho họ đều được giải thoát.[1][2]
Cũng
theo kinh này thì Quán Thế Âm Bồ tát có 32 hóa thân khác[3] là thân Phật, Bích
Chi, Thanh Văn, Phạm Vương, Đế Thích, Đại Tự Tại Thiên, Đại Tự Tại, Thiên Đại
Tướng Quân, Tỳ Sa Môn, Tiểu Vương, Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà-la–môn, Tỳ
Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Phụ nữ, Đồng nam, Đồng nữ, Thiên [4], Long[5],
Dạ xoa[6], Càn-thát-bà[7], Ca-lâu-la[8], A-tu-la[9], Khẩn-na-la[10], Ma-hầu-la-già[11],
Nhân, Phi nhân[12], Thần chấp Kim Cang.[13]
Sau này
lại có thêm 33 hóa thân khác của Quán Âm, những hóa thân này không dựa vào Kinh
sách mà chỉ dựa vào tư tưởng hóa độ lục đạo kết hợp với 33 Ứng hóa thân trên pha
trộn với tín ngưỡng dân gian của Nhật Bản và Trung Hoa mà tạo thành, đó là
các hồng danh: Dương Liễu Quán Âm, Long Đầu Quán Âm, Trì Kinh Quán Âm, Viên
Quang Quán Âm, Du Hý Quán Âm, Bạch Y Quán Âm, Liên Ngọa Quán Âm, Lang Kiến Quán
Âm, Thí Dược Quán Âm, Ngư Lam Quán Âm, Đức Vương Quán Âm, Thủy Nguyệt Quán Âm,
Nhất Diệp Quán Âm, Thanh Cảnh Quán Âm, Uy Đức Quán Âm, Diên Mạng Quán Âm, Chúng
Bảo Quán Âm, Nham Hộ Quán Âm, Năng Tĩnh Quán Âm, A Nậu Quán Âm, Vô Úy Quán Âm,
Diệp Y Quán Âm, Lưu Ly Quán Âm, Đa La Quán Âm, Cáp Lỵ Quán Âm, Lục Thời Quán
Âm, Phổ Bi Quán Âm, Mã Lang Phụ Quán Âm, Hiệp Chưởng Quán Âm, Nhất Như Quán Âm,
Bất Nhị Quán Âm, Trì Liên Quán Âm, Sái Thủy Quán Âm. [14][15]