Thích Trúc Thái Phước
Ðời
sống bao gồm hai phương diện: ngoại cảnh và nội tâm. Có những tác động từ bên
ngoài do những định luật khách quan về vật lý, xã hội, thời tiết, thiên nhiên,
và cả siêu nhiên nữa. Có những tác động từ bên trong do những định luật khác về
sinh lý, tâm lý, nghiệp báo v.v...
Hai
mặt trong và ngoài tương giao qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Khi sự tương
giao này diễn ra trong mê mờ (vô minh) thì sẽ phát sinh vọng động (ái dục,
hành) và tạo thành một chuỗi nhân quả liên quan (duyên khởi). Khi sự tương giao
này diễn ra trong sáng suốt (tuệ) thì nội tâm được trầm tĩnh (định) và đời sống
trở nên trong lành (giới).
Có
hai loại người, một là người có nội tâm phụ thuộc vào hoàn cảnh. Họ bị ngoại cảnh
thu hút, cuốn trôi, ràng buộc và nhận chìm, tất nhiên là họ phải gặt lấy những
hậu quả bất an. Hai là người có nội tâm không lệ thuộc vào ngoại cảnh, họ sống
tự chủ, tự tại, an nhiên, thanh tịnh và dĩ nhiên hưởng được đời sống thanh
thoát.
Sự
tác động của ngoại cảnh gọi là duyên, chủ định của nội tâm gọi là nhân. Với người
bị ngoại cảnh chi phối thì duyên lôi cuốn nhân, với người không bị ngoại cảnh
chi phối thì nhân thắng được duyên, tuy tùy duyên mà vẫn tự chủ.
Tùy duyên có nghĩa
là thuận theo hoàn cảnh. Như vậy phải là một người có nhân vững vàng (nội tâm ổn
định, sáng suốt, tự chủ) thì mới có thể tùy duyên, bằng không sẽ bị duyên lôi
cuốn hoặc chạy theo duyên, nghĩa là nhắm mắt đưa chân, vui đâu chúc đó, thiện
ác theo người, không phân tà chánh, đó là người phóng dật.
Tùy
duyên còn có một nghĩa khác là tùy lúc tùy nơi mà xử sự ứng tiếp, để có thể tùy sở trụ xứ thường an lạc. Khổng giáo
cũng dạy "tùy cảm nhi ứng, tùy ngộ nhi an". Vậy tuy tùy duyên mà vẫn
bất biến mới là tùy duyên một cách đúng đắn.
Hoàn cảnh có xấu, có
tốt, có thuận, có nghịch, phải luôn luôn sáng suốt, định tĩnh, trong lành thì mới
đủ sức bén nhạy để tùy cảm nhi ứng, tùy ngộ nhi an. Chỉ cần thiếu tỉnh thức
(chánh niệm, tỉnh giác) là bị chìm vào biển trùng trùng duyên khởi ngay.
Nhưng
xấu tốt, thuận nghịch không căn cứ ở vừa lòng hay không vừa lòng; cái gì vừa lòng
chưa hẳn đã tốt, cái gì trái ý chưa hẳn đã xấu. Thường người đời xử sự theo tư
kiến, tư dục nên họ lấy thước đo vừa lòng và trái ý của họ để làm chuẩn, và như
thế thì không thể tránh khỏi sự va chạm với những người chung quanh, vì tư kiến,
tư dục của mỗi người mỗi khác.
Cùng
một hoàn cảnh mà mỗi người xử sự mỗi khác, đưa đến hậu quả, dĩ nhiên cũng ở mỗi
người khác nhau. Sở dĩ như vậy là vì sự tương giao giữa nội tâm và ngoại cảnh
diễn ra trong mê mờ (vô minh, không tỉnh thức) đã phát sinh những vọng động (ái
dục) sai khác.
Không thể điều chỉnh
sự dị biệt, mâu thuẫn này giữa con người bằng cách thay đổi hoàn cảnh, vì nó chỉ
là điều kiện phụ (duyên), mà phải thay đổi nội tâm (nhân).
Ðiều
chỉnh nội tâm không phải là ép buộc nó phải theo một khuôn mẫu nào mà ta đã chủ
định, vì như thế là vẫn còn theo tư kiến, tư dục, và chắc chắn vẫn tạo hố sâu
cách biệt với người khác.
Nội
tâm sẽ biết cách tự xử thích ứng với hoàn cảnh khi ta để cho nó được tự do thư
thái nhất, nghĩa là để cho nó được sáng suốt - định tĩnh - trong lành.
Ðừng
hiểu tự do tâm linh theo nghĩa buông thả cho nó muốn làm gì thì làm, vì như vậy
có nghĩa là tự trói buộc sâu dày vào vô minh, ái dục, đúng vậy không?
Khi ta không thích hợp
với ngoại cảnh, với những người chung quanh, không có nghĩa là hoàn cảnh nghịch
với ta (nghịch duyên). Khi ta thích hợp với ngoại cảnh, với những người xung
quanh, cũng không có nghĩa là hoàn cảnh thuận với ta (thuận duyên).
Tác
động từ ngoại cảnh được đánh giá thuận hay nghịch theo hai cách:
1.
Theo cách nhìn của tư kiến, tư dục, tức như đã nói, cái gì vừa lòng là thuận,
cái gì trái ý là nghịch. Ðó là cách nhìn thế tục.
2.
Theo cách nhìn của đạo thì tác động ngoại giới nào làm tăng trưởng điều bất thiện
như: dục, ái, tham, sân, hận, oán thù, dao động, xáo trộn, phóng dật, ích kỷ,
ngã mạn v.v... Nói chung là tham, sân, si thì đó là nghịch duyên, dù nó có đem
lại cho ta cái gọi là hạnh phúc, an lạc trần thế. Với nghịch duyên này ta phải
thận trọng, cảnh giác, phòng hộ, giữ gìn đừng để nó lôi cuốn ta vào bất thiện
và hậu quả là bất an, đau khổ.
Tác động ngoại giới
nào làm tăng trưởng thiện pháp như: không tham, không sân, không si, từ, bi, hỷ,
xả, vị tha, định tĩnh, hiền thiện, khinh an, thư thái, chánh trực, nhu hòa
v.v... thì đó là thuận duyên, dù nó có đem lại thiệt thòi đau khổ về mặt vật chất.
Có
những hạnh phúc trần thế chỉ làm cho ta mất đi niềm an lạc thật sự của tâm hồn.
Trái lại có những thiệt thòi đối với thế giới bên ngoài lại là niềm hạnh phúc của
nội tâm. Vì không thấy chân lý này con người luôn chạy theo sự vừa lòng đối với
ngoại cảnh mà họ cho là hạnh phúc, nhưng như Nikos Kazantzaki nói "mảnh đất
bình an chỉ có trong tâm hồn bạn" thì quả đúng là "tâm hồn tịch tịnh
là hạnh phúc tối thượng" (Santç paramamû sukhamû).
Như
vậy vấn đề không phải ở chỗ làm thế
nào để thích hợp với hoàn cảnh, với những người chung quanh, mà vấn đề là nội
tâm ta có thật sự tự do, nghĩa là có thật sự sáng suốt, định tĩnh, trong lành
hay không mà thôi.
Khi
ta không cần cố gắng tìm cách thích ứng với hoàn cảnh, mà chỉ cần một nội tâm ổn
định, trong sáng và tỉnh thức, thì lúc đó ta lại thấy dễ dàng thích ứng với hoàn cảnh một cách chính xác và tự nhiên
hơn. Nghĩa là tâm ta sẽ biết cách thích ứng tùy theo hoàn cảnh thuận hay nghịch.
Tuy thích ứng nhưng không nhất thiết phải thuận theo hoàn cảnh, vì dù thuận hay
nghịch thì nội tâm vẫn được tự do.
Nhân
(nội tâm) tốt có nghĩa là không bị lệ thuộc vào duyên (hoàn cảnh), độc lập
trong mọi điều kiện; vì vậy mà ở trong điều kiện (thuận hay nghịch) nào cũng
không mất tự tánh. Nếu thích ứng được hiểu theo nghĩa này thì mới nên thích ứng.
Tóm
lại, muốn thích ứng với hoàn cảnh, với
những người chung quanh, thì trước hết ta phải:
1.
Sáng suốt biết rõ thân tâm mình trong mọi hành vi động tịnh, từng giây từng
phút. Nếu quên mình thì phải sớm tự tỉnh thức.
2.
Trầm tĩnh và chú tâm vào chính mình, đừng để tâm buông lung vọng động theo ngoại
cảnh, vẫn giữ sự chú tâm định tĩnh bên trong. Nếu có vọng động thì chú tâm vào
chính vọng động đó, sẽ định tĩnh lại ngay.
3.
Khi hành động, nói năng, suy nghĩ hay không thì thân khẩu ý đều phải hiền thiện,
chánh trực hợp đạo lý. Nếu có tà ý liền tinh tấn chú tâm tỉnh giác thì tâm sẽ tự
trở về đường ngay. Nếu ta giữ được tâm bình hạnh trực như thế, thì sẽ thấy dù
cho không cần thích ứng, nó vẫn thích ứng dễ dàng và chính xác. Trái lại nếu chỉ
cố gắng thích ứng bên ngoài thì ta sẽ bị tha hóa, tự đánh mất mình.
Ngoại cảnh tuy là
duyên, là phụ, nhưng với người nội tâm (nhân) không vững, thì nó vẫn có một sức
cuốn hút (cả thuận lẫn nghịch) rất mãnh liệt có thể làm xáo trộn, hủ hóa, tha
hóa hoặc hỗn loạn nội tâm.
Chính
vì thế mà nội tâm phải luôn luôn sáng suốt, định tĩnh, trong lành.