Thứ Ba, 15 tháng 5, 2012

Ăn Chay và Sức Khỏe

            67.1
                                                                            Trần Anh Kiệt
                                                   PHẦN MỘT

                                  ĂN CHAY THEO QUAN NIỆM
                                       CỦA MỖI THỜI ĐẠI


Hiện nay một số nhà truyền giáo trên thế giới vẫn còn rao giảng với tín đồ của họ rằng "loài vật là những cái máy không linh hồn và không cảm giác". Do đó người ta có thể sát sinh các loại động vật một cách vô tội vạ để lấy thịt cung cấp cho thị trường tiêu thụ.


Tại một số quốc gia trên thế giới, người ta còn lập ra các hội hoặc câu lạc bộ săn bắn. Họ coi việc đi săn như một môn thể thao hay một trò vui tiêu khiển. - Úc Châu có câu lạc bộ săn bắn vịt trời. Hàng năm nhân đến mùa vịt trời tụ hội về, các xạ thủ thi đua nhau bắn chúng để xem ai đạt được thành tích kỷ lục, rồi vứt bỏ các xác của vịt trời ấy một cách tàn nhẫn và hoang phí mà không hề lấy thịt.
Tuy nhiên phong trào bảo vệ môi sinh và thương yêu cầm thú đã ra đời. Họ cố gắng tranh đấu bằng mọi phương tiện truyền thông, báo chí vân vân nhằm bênh vực sự hiện hữu của các sinh vật đáng thương này trên quả địa cầu. Ông John Robbins, tác giả quyển Diet For A New America (Phương pháp ăn uống cho một nước Hoa Kỳ mới), một quyển sách thuộc hàng bán chạy nhất hiện nay trên thế giới đã có số phát hành trên 450 ngàn quyển, đã phản bác luận điệu vô ý thức và đầy bạo lực trên đây bằng những câu chuyện thật mà ông đã sưu tầm được qua các phóng sự của báo chí khắp nơi. Chuyện của ông kể thì nhiều, nhưng chúng tôi chỉ trưng dẫn ra đây một vài sự kiện tiêu biểu để quý độc giả tiện việc suy xét.

Vào năm 1971, cô Yvonne Vladislavich đã lái thuyền buồm vượt đại dương. Đến vùng biển Ấn Độ thì tàu của cô bị lâm nạn. Mạn thuyền bị bể, nước tràn vào và dần dần chìm xuống đáy biển. Nơi Yvonne bị đắm thuyền là vùng biển rất nguy hiểm vì có nhiều cá mập sinh sống.
Trong khi đang vật lộn với sóng to gió lớn thì bất thình lình một cái phao từ dưới đáy biển trồi lên và nâng thân hình của cô nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Cô quan sát và rất ngạc nhiên khi biết rằng đây không phải là một cái phao mà chính là một con cá heo to lớn đang thực hiện việc cấp cứu. Ngoài ra còn có hai con cá heo khác bơi chung quanh để che chở cho cô khỏi bị tấn công bởi đàn cá mập quái ác.
Ba con cá heo đó cứ thế mà bảo vệ cô và từ từ đưa cô đến một cái phao lớn mà người ta dùng để làm dấu hải phận để cô bám chặt vào một cách an toàn. Sau khi Yvonne được một tàu hải hành cứu thoát, người ta kiểm chứng biết được từ chỗ cô được đàn cá heo bảo vệ đến cái phao an toàn có khoảng cách dài trên 200 hải lý.
Ngoài ra vào ngay 28 tháng 5 năm 1978, một chiếc tàu biển gồm bốn thủy thủ đã bị thất lạc ở ngoài khơi đảo Dassen thuộc quốc gia Nam Phi vì bị sương mù dầy đặc. Họ rất lo sợ vì biết rằng tàu đang trôi giạt trên vùng biển có nhiều đá ngầm hiểm trở.
Trong lúc mọi người đang âu lo để tìm phương thoát hiểm thì bỗng thình lình tàu của họ bị húc nhẹ và bị đẩy đi theo một hướng khác nên may mắn thoát ra khỏi vùng sương mù bao phủ. Ra nơi quang đãng, mọi người trông thấy một đàn cá heo đang đẩy mạnh chiếc tàu về nơi an toàn. Sau đó chúng phóng lên khỏi mặt nước và nhào lộn nhiều vòng như hân hoan bái biệt mọi người rồi biến dạng vào lòng biển cả.

Một câu chuyện khác vào năm 1975, một chiếc tàu bị đắm ở ngoài khơi hải phận Manilla, thủ đô của nước Phi Luật Tân. Mọi người trên tàu nhốn nháo dành giựt xuống bè cấp cứu. Một người đàn bà chẳng may không còn chỗ trên bè và đang vẫy vùng trên sóng nước trong tình trạng vô cùng nguy ngập. Bỗng người ta trông thấy một con rùa biển bơi nhanh về phía nạn nhân tuyệt vọng đó.
Như may mắn vớ được phao cấp cứu, người đàn bà này bèn bám chặt trên lưng rùa một cách an toàn. Suốt hai ngày liền, rùa đã nhịn ăn để làm phao cấp cứu cho nạn nhân được sống sót. Sau cùng người đàn bà này đã được cứu thoát bởi một chiếc tàu biển khác. Có người lầm tưởng rằng nạn nhân được sống sót là nhờ bám vào một vật nổi ở trên biển. Đến khi người đàn bà được vớt lên tàu rồi, mọi người mới trông thấy rõ rùa biển trồi lên trên mặt nước, vờn qua vờn lại nhiều vòng rồi mới biến dạng vào lòng đại dương.
Theo sự nghiên cứu của nhà sinh vật học Henry Bergh, rùa biển này là loài động vật sống lâu năm trên thế giới. Có con đã sống trên 600 năm. Thịt của nó rất quý và rất đắt tiền. Một số tàu đánh cá đã bắt được những con rùa biển này, đâm thủng mai của nó rồi xỏ dây lôi theo sau con tàu, hành hạ và bỏ đói chúng sau bao chặng đường thủy lộ, trước khi thịt của chúng được "hân hạnh" xuất hiện trên dĩa của những bàn tiệc sang trọng trong các nhà hàng quốc tế. Đáng tiếc thay ! Loài người chúng ta đã trả ơn những nghĩa cử cao đẹp đó bằng cách hành xử không tương xứng như thế.

Vào năm 1950, một cụ bà hiền lành cư ngụ tại thị trấn Hemingtage được nhiều bạn láng giềng cảm mến và gọi cụ một cách thân mật là cụ Tess. Cụ sống cô đơn trong một căn nhà cũ kỹ nên nuôi một con mèo và một con chim hoàng oanh để làm bạn hầu vơi bớt nỗi quạnh quẽ. Người ta không biết cụ có con cái gì không ngoại trừ người cháu gái ở cách nhà cụ vài trăm mét thường hay tới lui thăm viếng.
Một đêm nọ, vợ chồng người cháu gái bị đánh thức bởi tiếng vỗ cửa ở bên ngoài. Người chồng lười biếng bảo: "Gió phe phẩy cành lá các cây kiểng ngoài sân đó mà", rồi kéo chăn trùm lên tiếp tục ngủ nữa. Tuy nhiên tiếng vỗ cửa càng ngày càng dồn dập và khẩn cấp hơn.
Người cháu gái bèn xuống giường và đến vén màn cửa sổ để xem việc gì động tịnh ở bên ngoài. Cô rất lấy làm ngạc nhiên khi trông thấy con chim hoàng oanh của bà cô mình đang xòe đôi cánh đập mạnh vào kính cửa sổ. Cô giục chồng: "Chắc có việc gì xảy ra ở nhà cô của mình nên con chim hoàng oanh mới bay đến vỗ cửa nhà mình một cách khẩn cấp như thế".
Người chồng bèn tung chăn xuống giường và vội vàng đưa vợ đến nhà người cô trong khi con chim hoàng oanh đã sải cánh rớt độp xuống khung cửa sổ mà chết vì quá kiệt sức. Đến nơi, hai vợ chồng người cháu mới phát giác cô mình đã té, nằm bất tỉnh trên sàn nhà với mình mẫy bê bết máu.
Nếu không nhờ sáng kiến của con chim hoàng oanh bay đi cấp báo thì vợ chồng người cháu gái đâu có đến kịp thời để cấp cứu, thì biết đâu cụ Tess đã chết từ lúc nào rồi.

Ngoài ra tại Úc Châu, vào năm 1998, theo tin tức báo chí và đài truyền hình ở Sydney loan tải, một dã nhân cái tại sở thú Taronga đã bỏ ăn bỏ uống và vô cùng buồn thảm trong nhiều ngày liên tiếp trước cái chết của dã nhân con.
Frala là tên của dã nhân cái được các nhân viên sở thú đặt cho. Nó thuộc gống dã nhân ở vùng đồng bằng và được đưa từ một sở thú khác ở Hòa Lan về sở thú Taronga tại Sydney để tiếp tục nuôi dưỡng. Khi thấy con dã nhân cái 17 tuổi này có thai, các nhân viên trách nhiệm ai nấy cũng đều vui mừng vì biết rằng nó đã thích ứng với cách thức nuôi dưỡng của họ.
Frala sinh ra một dã nhân con bé bỏng. Đây là đứa con thứ ba của Frala và là đứa con thứ bảy của dã nhân đực Kibau do nhân viên sở thú Taronga cho lai giống trong điều kiện tự nhiên ở Úc.
Khi dã nhân con này được 3 tuần tuổi, thì nó chết một cách đột ngột vào cuối tháng 3 năm 1998 khiến cả bầy dã nhân nói chung và Frala nói riêng đau khổ vô cùng. Người ta chưa từng thấy loài khỉ hay dã nhân khóc bao giờ. Nhưng cử chỉ đau buồn của một người mẹ mất con đã biểu lộ một cách rõ rệt ở Frala bằng cách ôm chặt xác chết của đứa con vào lòng trong suốt 3 ngày liền và bỏ ăn bỏ uống.
Sự kiện này đã làm cho nhân viên sở thú nào trông thấy cũng đều mũi lòng. Vì tôn trọng tình mẫu tử và để chia xẻ sự mất mát một đồng loại của bầy dã nhân, các nhân viên sở thú bèn che kín chuồng lại để chúng được tự do thích ứng với hoàn cảnh đau buồn.
Ba ngày sau, khi họ đến mở cửa chuồng, Frala nguôi ngoai được đôi chút. Nhưng nó không ra ngoài cùng đàn mà lặng lẽ chui vào chuồng nằm ngủ. Các nhân viên trách nhiệm cũng đặc biệt quan tâm đến dã nhân đực Kibau để tránh gây thêm đau buồn cho nó.
Suốt mấy ngày liền, nhân viên sở thú cũng cảm thấy xót xa vì đã mất đi một con vật thân thương do chính bàn tay họ đã nhiều ngày săn sóc. Nhiều cú điện thoại và nhiều thư chia buồn cũng đã được gởi đến từ những người thương yêu súc vật để chia xẻ sự mất mát này với Ban Giám Đốc và nhân viên của sở thú Taronga.
Qua những sự kiện trình bày trên đây, chúng ta thấy loài vật cũng có tình cảm, trí thông minh, lòng nhân ái và sẵn sàng xả thân để cứu nguy tánh mạng của những chủng loại khác. Chính vì thế mà Đức Phật đã dạy chúng ta phải ăn chay để trì giới sát hầu tôn quý sinh mạng của tất cả mọi chúng sinh.
Vì thế chúng ta nên thương yêu loài vật vì chúng cũng được Tạo Hóa sinh ra và có quyền bình đẳng để hiện diện trên quả địa cầu này. Cũng cùng một lý tưởng cao đẹp đó, các hội Bảo vệ Môi sinh Thiên nhiên và Thương yêu loài vật khắp nơi trên thế giới cổ động mọi người ăn chay, có nơi còn chống báng cả việc sử dụng lông thú vật để may áo nữa.

                                            Bài II
Nếu nhân loại trên toàn thế giới đều ăn chay trường, không nghĩ ngợi gì tới chuyện sát sanh những động vật khác. Có lẽ cuộc sống của chúng ta đã có một bộ măt tốt đẹp. Mọi người đều sống trong sự thanh bình, không lòng sân hận , chém giết lẫn nhau.
Ông Alvin Toffler đã viết trong một quyển sách xuất bản hồi năm 1975 và đề nghị những biện pháp để giải quyểt nạn khủng hoảng lương thực tại một số quốc gia đói nghèo trên thế giới. Ông ao ước sẽ có một tôn giáo nào đó ở phương Tây dấy lên phong trào chống đối và lên án gắt gao việc sát hại súc vật với một số lượng khổng lồ dể làm thực phẩm cho dân chúng. Số lượng ngũ cốc không còn dùng vào việc chăn nuôi nữa có thể thỏa mãn sự dinh dưỡng cho loài người trên toàn thế giới.
Chuyên gia nghiên cứu thực phẩm More Lappé, tác giả quyển sách bán chạy hiện nay Diet For A Smaller Planet (Phương pháp ăn uống cho một quả tinh cầu nhỏ), đã xuất hiện trong một cuộc phỏng vấn trên đài truyền hình gần đây rằng: "Chúng ta có thể ví một miếng thịt bò như một chiếc xe hơi Cadillac".
Bà giải thích tiếp: "Điều tôi muốn nói là ở xứ Mỹ hiện thời, người ta thi đua nhau sắm những chiếc xe hơi uống xăng như hạm chỉ vì giá nhiên liệu ở đó rất rẻ. Cũng như họ đã dùng biết bao số lượng ngũ cốc để chăn nuôi cũng chỉ vì giá ngũ cốc thật rẻ mà thôi".
Theo những chứng liệu cung cấp bởi Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ, trên 90 phần trăm tổng sản lượng thóc lúa tại Mỹ được dùng vào kỹ nghệ chăn nuôi thay vì dùng để xuất khẩu cứu giúp những dân tộc nghèo đói.
Trong các bữa ăn thường nhật của người dân Mỹ và các nước Tây Phương lúc nào cũng thấy đầy dẫy những thịt. Người ta dùng nông phẩm để chăn nuôi thật là một điều vô cùng lãng phí. Cũng do tài liệu của Bộ Nông Nghiệp Mỹ thì người ta phảt mất tới 16 cân lúa mì để chăn nuôi gia súc mà chỉ thu vào không đầy 1 cân thịt.
Tiến sĩ Aarol Altshul, trong quyển Protein: Their Chemistry and Politics (Protein: Hóa Học và Chính Trị) đã viết: "Nếu chúng ta sử dụng một diện tích đất 1 mẫu Anh (4046m2) để trồng hoa màu cung cấp lương thực cho người ăn chay, ta sẽ được một sản lượng gấp 20 lần nếu dùng dất ấy để chăn nuôi súc vật lấy thịt. Hiện nay tại Hoa Kỳ, phân nửa diện tích đất để trồng trọt được dùng để sản xuất thực phẩm gia súc.
Tôi nghĩ rằng nếu toàn thể đất đai canh tác trên quả địa cầu này đều được dùng để sản xuất nông phẩm cho loài người thì chúng ta sẽ có khả năng cung ứng đầy đủ lương thực cho 20 tỷ dân số trên thế giới một cách dễ dàng".
Do những sự kiện trình bày trên đây, các chuyên gia lương thực trên thế giới bảo rằng nạn đói ngày nay không còn là một mối đe dọa trầm trọng nữa. Người ta không nên e sợ nạn nhân mãn mà đi khuyến khích việc phá thai, khiến hàng năm có đến 50 triệu thai nhi trên toàn thế giới đã bị giết một cách oan uổng khi chúng chưa được hân hạnh cất tiếng khóc chào đời.
Nếu tính quân bình theo tổng sản lượng nông phẩm trên toàn thế giới cho mỗi đầu người thì ngày nay được coi như không còn xảy ra các nạn đói nữa. Nhưng điều dó chỉ là một ảo tưởng. Trong một bản tường trình đọc trước Hội Nghị Lương Nông Quốc Tế tại La Mã hồi năm 1974, ông René Dumont, một chuyên gia nông học của viện Đại Học Nông Nghiệp Pháp đã phát biểu rằng: "Chính những bữa ăn thịnh soạn đầy thịt của những người giàu có đã gây ra nạn đói kém cho những người nghèo khổ".
Tình trạng lãng phí nông phẩm trầm trọng như thế phải được chấm dứt bằng cách chính quyền tại mỗi nước nên áp lực các kỹ nghệ gia chăn nuôi không được dùng thóc lúa để làm thực phẩm gia súc và phải hạn chế trại chăn nuôi đến mức tối thiểu.
Một con bò còn sống sẽ cung cấp được nhiều lương thực hơn là một con bò đã bị giết để lấy thịt. Bò sống có thể cung cấp nguồn thực phẩm dồi dào và liên tục chứa nhiều chất protein cao như sữa, bơ, phó mát, sữa chua v.v...
Năm 1971, ông Stewart Odend’hal của trường Đại học Missouri đã hướng dẫn một phái đoàn nghiên cứu về chăn nuôi sang Bengal (Ấn Độ). Ông quan sát thấy rằng ở đây người ta không nuôi bò bằng thóc lúa mà chỉ cho ăn bằng rơm, rạ, xác mía và cỏ. Nhưng trớ trêu thay, ở Ấn Độ lại thường xảy ra nạn đói kém.
Sự thiếu hụt lương thực tại Ấn Độ không phải vì nhân dân xứ này thờ bò nên không giám giết bò để ăn thịt, mà chính vì thiên tai hạn hán và những cuộc khởi loạn chính trị xảy ra liên miên. Ngày nay Ấn Độ được coi như là đã vượt qua tình trạng thiếu ăn trong dân chúng. Trong một báo cáo đọc trước Quốc hội Ấn hồi tháng 2 năm 1980, các chuyên gia nông học đã kết luận: "Ấn Độ ngày nay đã tự sản xuất đầy đủ lương thực để cung ứng cho nhu cầu của nhân dân trong nước".
Bò sống cung cấp cho chúng ta sữa và những phó sản của sữa một cách liên tục. Đây là những thực phẩm có phẩm chất bổ dưỡng cao. - Hoa Kỳ sản phẩm của sữa rất dồi dào. Đôi khi người ta còn muốn hạn chế bớt việc sản xuất.
Dân biểu Sam Gibbons của tiểu bang Florida gần đây đã báo cáo lên Quốc hội rằng chính phủ hiện nay đang bị bắt buộc phải dự trữ sản lượng của sữa trên mức an toàn. Ông bảo với các đồng viện: "Chúng ta hiện nay đang quản thủ đến 440 triệu cân bơ, 545 triệu cân phó mát và 765 triệu cân sữa bột. Hàng tuần mức tồn kho vẫn còn tăng lên 45 triệu cân.
Thực ra chỉ cần 10 triệu con bò sữa như thế tại Hoa Kỳ đã cung cấp một sản lượng sữa và phó sản của sữa dư thừa như vậy, khiến thỉnh thoảng phải xuất kho hàng triệu cân để cung cấp hoặc viện trợ cho những dân tộc nghèo đói. Đây là một bằng chứng hùng hồn cho thấy rằng giá trị của những con bò còn sống ích lợi hơn những con đã bị giết chết để lấy thịt.
Hiện nay trên thế giới, người ta đã thành lập những phong trào bảo vệ môi sinh, những phong trào chống đối việc sát hại các lọai cá voi, cá heo và hải cẩu vân vân. Hiện cũng có một số phong trào thương yêu loài vật nhằm chống đối việc sát hại động vật để làm thực phẩm cho con người, trong số đó có nữ minh tinh điện ảnh đã một thời nổi tiếng của nước Pháp là Brigit Bardo.
Những ai có dự phần vào kỹ nghệ chăn nuôi để sản xuất thịt thì mới lo âu khi thấy khuynh hướng ăn chay càng ngày càng lan rộng trên thế giới. Tháng 6 năm 1977, tạp chí thương mại tại Hoa Kỳ có tên là Farm Journal, trong mục lá thư chủ nhiệm đã viết: "Ai là kẻ chống đối lại danh từ thơm tho của thịt?" Tạp chí này còn kêu gọi các nhà chăn nuôi chung góp một số tiền đến 40 triệu đô la để quảng cáo việc tiêu thụ thịt hầu giữ vững giá cả của thịt trên thị trường.
Ngày nay chúng ta phải trả một giá thật đắt cho sự ăn thịt là đã làm hư hoại môi sinh thiên nhiên hữu ích cho nhân loại. Cơ quan nghiên cứu về Nông Học Hoa Kỳ đã chỉ trích về những chất cặn bã do các lò sát sinh thải ra đã làm dơ bẩn sông lạch. Nguồn nước tinh khiết còn bị cạn dần do việc sử dụng một cách phí phạm bởi những lò sát sinh đó.
Trong quyển Population, Resources and Environment (Dân số, Tài nguyên và Môi sinh), Paul và Anne Ehrlich đã so sánh: "Để thu hoạch 1 cân lúa mì, chúng ta chỉ cần 60 cân nước. Nhưng nếu muốn sản xuất được 1 cân thịt, chúng ta phải cần tiêu thụ từ 2500 đến 6000 cân nước".
Năm 1973, tờ New York Post đã tiết lộ một tin động trời. Một lò sát sinh lớn tại Mỹ chuyên cung cấp thịt gà đã sử dụng tới 100 triệu gallons nước mỗi ngày, tương đương với lượng nước cung cấp cho một thành phố có 25 ngàn dân cư.
Như chúng tôi đã trình bày ở trên, sản xuất nông phẩm để làm lương thực cho loài người, chúng ta chỉ cần một diện tích đất đai tương đối nhỏ. Nhưng nếu muốn sản xuất nông phẩm để cung ứng cho kỹ nghệ chăn nuôi thì nhu cầu đồng cỏ và diện tích đất đai phải vô cùng rộng lớn.
Vì lẽ ấy mà từ ngàn xưa đã xảy ra các cuộc tranh chấp lãnh thổ giữa các quốc gia với nhau. Một cuộc nghiên cứu được đăng tải trong quyển The Plant Foods For Human Nutrition (Thức ăn cây cỏ cho sự dinh dưỡng của loài người) đã so sánh: "Trên cùng một diện tích ?#7845;t một mẫu Anh, chúng ta trồng nông phẩm để làm lương thực thì nó sẽ cung cấp một tỷ số chất protein nhiều gấp 5 lần so với dùng đất ấy để chăn nuôi lấy thịt.
Nếu trồng đậu chúng ta sẽ được chất protein gấp 10 lần và nếu trồng cải spinach thì lượng chất protein sẽ gấp 28 lần nhiều hơn". Qua lịch sử cổ đại của Hy Lạp, nhà triết học nổi danh Socrates đã từng khuyên bảo loài người nên ăn chay.
Đó là một phương cách khôn ngoan mà con người đã tận dụng tài nguyên phong phú do nguồn thực phẩm nông nghiệp cung cấp. Ông nhấn mạnh thêm: "Nếu mọi người đều ăn thịt thì chúng ta phải cần rất nhiều diện tích đồng cỏ để chăn nuôi nên d sinh ra các cuộc chém giết lẫn nhau để tranh dành lãnh thổ".
Thật là khôi hài khi nói đến việc ăn thịt có liên quan chặt chẽ tới những cuộc chiến tranh trong thời kỳ người Âu Châu mở mang đi xâm chiếm thuộc địa. Đó là những cuộc chiến tranh vì hương liệu gia vị.
Thuở đó người Âu Châu chưa sản xuất các loại gia vị như tiêu, hành, tỏi, ngũ vị hương vân vân, cho nên các thương nhân nhập cảng các loại sản phẩm này thường rất giàu có. Các nhà lãnh đạo của một số nước Tây Phương vì lòng tham nên đã động binh xâm chiếm Ấn Độ và một số quốc gia phương Đông với ý đồ vừa cướp đoạt lãnh thổ, bắt dân nô lệ và vừa nắm trọn quyền kiểm soát thu mua các loại hương liệu gia vị đắt tiền.
Trong kỷ nguyên này, nguồn lợi về sản xuất lương thực cũng còn là một ám ảnh d gây ra các cuộc bạo động và tranh chấp. Tháng 8 năm 1974, cơ quan Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ (CIA) đã cảnh giác rằng trong tương lai gần, có thể sẽ không đủ lương thực cho toàn thế giới vì sự gia tăng dân số càng ngày càng nhiều. Song sự kiện này có thể khắc phục được bằng cách tiết chế việc dùng nông phẩm để chăn nuôi gia súc, hầu gia tăng lương thực cho loài người.
Như chúng tôi đã trình bày ở trên, gạo, lúa mì, sữa và đậu là những nguồn cung cấp chất protein dồi dào cho nhân loại. Do đó ăn chay bao giờ cũng có nhiều chất dinh dưỡng nên rất tốt cho sức khỏe của con người. Chúng ta có thể so sánh: 100g thịt bò chứa 20g chất protein, 100g phó mát chứa 25g và 100g đậu nành chứa đến 34g chất protein. Mặc dầu thịt chứa ít chất protein hơn nhưng giá thị trường lại đắt hơn.
Vì những sự bất lợi của việc ăn thịt đã gây ra biết bao phiền toái và thảm trạng cho loài người, nên đã đến lúc chúng ta nên ăn chay để giữ gìn cho quả địa cầu này khỏi bị nhiều xáo trộn.

Bài III
Tại Hoa Kỳ, người ta ước lượng hàng năm có đến 134 triệu súc vật và 3 tỷ gia cầm bị giết để cung cấp thịt làm thực phẩm cho dân chúng. Nhưng trong khi mọi người đang vui vẻ thưởng thức các món ăn khoái khẩu đó, có mấy ai liên tưởng đến một số lượng khổng lồ các loài động vật bị giết chết một cách thảm thương để cho thân thể của con người được béo bổ.
Đôi khi người ta còn nhẫn tâm đùa cợt trên sự chết chóc một cách thích thú và vô tư lự. Điển hình là danh hề Ronold Mac Donald, trong một chương trình truyền hình thương mại, đã khôi hài với đám trẻ con rằng: "Các em có biết hamburger xuất xứ từ đâu không ?
Chúng được trồng ở vườn Hamburger đấy !" Đến lò sát sinh, người ta có cảm tưởng như bước chân tới một thứ địa ngục đầy mùi tử khí. Tiếng kêu la thất thanh của những con vật bị đập đầu, bị điện giật hay là bị bắn cũng đều là những cảnh hãi hùng mà bất cứ ai có một chút từ tâm đều không thể chịu đựng nổi.
Sau đó người ta còn treo giò những con vật lên rồi đưa vào nhà máy sản xuất thực phẩm bằng hệ thống dây chuyền. Đôi khi con vật còn sống trơ trơ, nhưng người ta thản nhiên cắt cổ nó hoặc thẻo thịt nó như một trò chơi một cách thích thú. Một hôm nọ, nhà vô địch quần vợt Peter Burwash đến viếng một lò sát sanh.
Khi ra về ông đã bất nhẫn mà viết những cảm nghĩ của mình trong một quyển sách nhan đề là A Vegetarian Primer (Sách dạy ăn chay). Có đoạn ông viết: "Tôi không nỡ bóp nát một cánh hoa mong manh. Tôi đã chơi hockey với hết sức bình sanh của minh.
Tôi cũng đã từng vùng vẫy và dọc ngang trên các sân quần vợt trong những trận thư hùng. Tôi không phải là loại người yếu đuối. Nhưng trước cảnh tượng mà tôi đã chứng kiến tại lò sát sanh, tôi thấy mình kinh khiếp và lòng mình mềm yếu vì thương hại".
"Khi tôi rời khỏi lò sát sanh, sự tội nghiêp đã dày vò lương tâm tôi. Tôi thầm nhủ sẽ không bao giờ có đủ can đảm đi sát hại một con vật dầu lớn dầu nhỏ. Tôi hiểu rằng có những nhân vật lỗi lạc trên thế giới họp nhau để bàn cãi về các vấn đề vật lý, kinh tế và môi sinh.
Cũng có một số người có quan điểm tán đồng với chủ thuyết ăn chay. Song điều làm cho tôi chọn lấy con đường chay lạt không phải chạy theo chủ thuyết này hay chủ thuyết nọ mà chính vì những cảnh dã man mà con người đã đối xử một cách tồi tệ với các loài vật không phương tự vệ mà tôi đã tận mắt chứng kiến".
Trong thời kỳ cổ Hy Lạp và cổ La Mã, lòng từ bi và những quan niệm về sự đối xử đạo đức luôn luôn là những nguyên động lực chủ yếu khiến một số danh nhân khép minh trong việc thọ trì trai giới.
Ông Pythagore, nhà toán học lừng danh trên thế giới đã từng khuyên nhủ: "Này bạn, xin đừng làm nhơ nhớp thân thể của mình bằng những thức ăn tội lỗi.
Chúng ta đã có bắp, bôm, lê, rau trái thừa thải, sữa và mật ong ngọt lịm. Quả đất này đã cung ứng cho chúng ta những thức ăn vô tội một cách dồi dào, đã khoản đãi chúng ta bằng những bữa tiệc không can dự vào máu. Chỉ có loài thú này mới ăn thịt loài thú khác vì bản năng tự nhiên và vì đói. Nhưng không phải tất cả loài thú nào cũng vậy. Bởi vì trong số đó cũng có các loài như bò, ngựa và trừu...đều ăn cỏ".
Sử học gia Diogenes kể rằng, ông Pythagore dùng điểm tâm buổi sáng bằng bánh mì và mật ong và dùng bữa ăn chiều với nhiều loại rau quả. Ngài cũng đã thể hiện lòng từ bi bác ái qua những hành động thực tin bằng cách nhiều lần trả tiền cho một số ngư phủ để phóng sanh những con cá mà họ đã bắt được trở về lòng biển cả.
Ông Plutarch, triết gia người Hy Lạp nhận xét về ông Pythagore như sau: "Theo tôi sự từ tâm là lý do chính khiến ông Pythagore kiêng thịt. Ông không nỡ nhìn cảnh dẫy dụa và kêu rống thất thanh của những con vật khi bị người ta phanh thây xẻ thịt.
Người ta giết những con vật đó không phải vì lý do chúng là thú dữ có khả năng nhiu hại loài người, mà chính vì mục đích để thỏa mãn khẩu vị của họ mà thôi. Người ta bức tử những con vật ngây thơ không móng vuốt để tự vệ mà đáng lý ra theo luật Tạo Hóa, chúng cũng có quyền sinh tồn, bình đẳng và hiện diện để làm đẹp quả địa cầu này như tất cả mọi loài". Ông còn nhấn mạnh: "Nếu bảo rằng bản tính tự nhiên của loài người là ăn thịt các loài thú, thì thử hỏi chỉ với hai bàn tay trắng do Tạo Hóa sinh ra, mà không cần đến sự trợ lực của dao, mác, hèo, gậy, con người đã làm được gì các loài thú đó?"
Ông Léonard Da Vinci (1452 - 1519), nhà danh họa và điêu khắc gia người Ý, đồng thời cũng là một thi sĩ nổi tiếng trên thế giới quan niệm ăn chay là đạo đức của con người. Sự ăn chay sẽ tránh được những tội ác về sát sinh. Ông còn nhấn mạnh rằng những ai không biết quý trọng sự sống của những sinh vật khác là những kẻ không đáng sống.
Cơ thể của những người ăn mặn không khác gì những bãi tha ma để chôn vùi xác chết các thú vật mà họ đã ăn vào. Trong các quyển vỡ nhật ký, ông thường viết đầy những câu danh ngôn về lòng từ bi bác ái và luôn luôn có những hành động qúy thương các loài sinh vật khác.
Ông Jean Jacques Rousseau (1712 - 1778), triết gia và là một văn hào người Pháp đã có những tác phẫm giá trị về mặt tư tưởng đã ảnh hưởng sâu xa đến nền văn học và cuộc cách mạng lịch sử tại quốc gia này. Ông là người chủ trương bênh vực sự hiện hữu của thiên nhiên và cổ xúy sự ăn chay. Ông nhận xét rằng phần đông những loài thú ăn thịt có bản tính hung tợn hơn những loài thú ăn cỏ.
Và dĩ nhiên những người ăn chay trường sẽ hiền từ hơn những người ăn mặn. Ông còn đề nghị những người hành nghề đồ tể không được mời vào làm bồi thẩm đoàn tại các tòa án.
Kinh tế gia Adam Smith (1723 - 1790), trong quyển The Wealth of Nations xuất bản vào năm 1776 đã khuyến khích loài người ăn chay và đã thuyết minh về sự lợi ích của việc thọ trì trai giới. Ông bảo rằng việc ăn mặn xét ra không cần thiết cho nhu cầu dinh dưỡng của con người.
Chúng ta đã có ngũ cốc, rau quả, phó mát, dưa và dầu thực vật. Đó là những thức ăn cung cấp cho chúng ta những chất dinh dưỡng dồi dào. Thịt đối với chúng ta sẽ không nghĩa lý gì nếu chúng ta ăn chay đầy đủ và đúng cách.
Cùng một quan niệm trên,
ông Benjamin Franklin (1706 - 1790), một khoa học gia và là một chính trị gia nổi tiếng của Hoa Kỳ, người đã bắt đầu ăn chay từ năm 16 tuổi đã bảo rằng nhờ ăn chay mà cơ thể của ông được trong sạch, tinh thần của ông được minh mẫn, trí óc của ông được tiến bộ và sự hiểu biết của ông được nhanh chóng hơn. Trong một bài tự thuật, ông có bình phẩm những người ăn mặn là "những kẻ cố sát".
Thi sĩ Percy Bysshe Shelley (1792 - 1822) cũng là người ăn chay trường. Ông chủ trương chống báng việc sát hại súc vật để cung cấp thịt cho dân chúng tiêu thụ. Ông đã có lòng vị tha và bắt đầu ăn chay trường từ hồi còn là một sinh viên tại trường Đại học Oxford. Sau này ông thành hôn với bà Harriet. Cả hai vợ chồng đều chấp nhận một cuộc sống chay lạt thanh khiết. Trong một bức thư đề ngày 14-3-1812, bà Harriet đã tâm sự với một người bạn: "Vợ chồng chúng tôi đã kiêng thịt và ăn chay trường như ông Pythagore vậy". Một số thi phẩm của ông Shelley thường mang tính chất vị tha bác ái., khuyên nhủ mọi người tránh việc sát sanh, nên ăn chay và sống một cuộc đời thanh cao tốt đẹp.
Văn hào nước Nga Léon Tolstoi (1828 - 1910) đã thọ trường chay từ năm 1885. Ông chống đối thú săn bắn của một số giai cấp qúy tộc và trưởng giả. Ông cũng chủ trương không sát sanh, chủ trương chủ thuyết hòa bình và ăn chay, tôn trọng sự sống của các loài sinh vật khác kể cả con ong và loài kiến. Ông tiên đoán những bạo động xảy ra triền miên trên thế giới chỉ vì loài người không biết tự chế tham vọng của mình. Sự kiện càng ngày càng tệ hại hơn và có thể xảy ra những cuộc chiến tranh khốc liệt làm xáo trộn cuộc sống an bình của nhân loại.
Trong bài tham luận The First Step (Bước đầu tiên), Léon Tolstoi bảo rằng những người ăn thịt là những kẻ phản đạo đức và "phạm tội sát sinh". Ông nói thêm: "Sự sát sinh đã làm cho những người vốn có một tâm hồn cao thượng, có lòng vị tha đối với mọi người như đối với chính bản thân mình, trở thành những kẻ hung bạo".
Nhà soạn nhạc Richard Wagner tin tưởng mạnh mẽ rằng sự sống của mọi loài đều có tính cách bất khả xâm phạm. Ông bảo: "ăn chay là một sự dinh dưỡng thuần hợp với bản chất thiên nhiên, cứu vớt con người xa lánh những tâm địa và hành động tội lỗi, đồng thời ông cũng mong ước sau này sẽ được hóa sinh về nơi an lạc đời đời".
Ông Henry David Thoreau (1817 - 1862), văn hào Hoa Kỳ có khuynh hướng chống áp bức nô lệ, chủ trương một cuộc sống thanh bình và thuận lý thiên nhiên. Ông là người ăn chay định kỳ từ thuở nhỏ, đã bảo rằng: "Chúng ta không có trách cứ những người ăn mặn. Thực ra vì sự sinh tồn, loài người có thể sát sinh trên một bình diện nào đó. Nhưng đây là một biện pháp bất khả kháng và rất đáng thương tâm.
Những người ăn mặn cần phải được hướng dẫn để cải thiện dần đường lối mưu sinh của mình, để họ tự ý thức và tự chọn lựa cho mình những thức ăn chay thanh đạm và cao khiết hơn. Theo sự suy nghiệm của bản thân tôi thì những sự kiện đó can dự một cách quan trọng vào vấn đề vận số của con người. Tôi tin rằng điều kiện ăn uống có thể cải thiện được.
Xuyên qua tiến trình lịch sử của nhân loại, chúng ta há chẳng thấy những bộ lạc ăn thịt người từ thuở xa xưa, ngày nay họ không còn ăn thịt lẫn nhau vì đời sống càng ngày càng văn minh hơn và con người trong những bộ lạc đó đã có ý thức hơn".
Trong lịch sử Án Độ vào thập niên 1940 và 50, nhà cách mạng bất bạo động Mohanda Gandhi đã dành lại chủ quyền cho đất nước từ trong tay thực dân Anh Quốc. Ông đã từng vào tù ra khám và được nhân dân nước Ấn tôn thờ là bậc Thánh nhân, cũng là người đã ăn chay từ thuở nhỏ. Thân sinh của ngài vốn theo đạo Hindus nên gia đình của ngài là một gia đình đạo đức và tất cả đều ăn chay theo giáo lý tốt lành của tôn giáo đó.
Song dưới sự cai trị của Anh Quốc, những tư tưởng tân tiến Tây phương đã ảnh hưởng mạnh mẽ và dần dần đánh bạt một số phong tục cổ truyền của nước Ấn. Một số thanh niên thời bấy giờ đã chê bai việc ăn chay trường và thờ đạo bản xứ là hủ lậu nên họ học đòi theo lối sống Tây phương trong đó có việc ăn thịt được họ hăm hở chấp nhận hơn cả.
Số người này còn khuyến dụ ông Gandhi theo trào lưu mới như bọn họ, nhưng đã bị ông từ chối. Do đó ông đã trở thành nạn nhân của sự chê bai gièm xim. Họ bảo rằng ăn thịt sẽ tăng cường sức khỏe, nghị lực và lòng can đảm. Nhưng ông Gandhi vẫn khăng khăng giữ vững lập trường của mình không hề xao xuyến.
Không những thế ông còn viết tất cả 5 quyển sách chuyên về đề tài ăn chay và khuyên mọi người trì giới. Ông bảo: "Đã đến lúc chúng ta cần phải sửa sai một số tư tưởng lầm lẫn cho rằng ăn chay sẽ làm cho tinh thần chúng ta bị bạc nhược, thụ động và nhụt chí phấn đấu. Dù trong tình huống nào, tôi vẫn không xem việc ăn thịt là cần thiết".
Hàng ngày ông Gandhi thường dùng giá lúa mạch, bột hạnh nhân, rau xanh, chanh và mật ong trong những bữa ăn thanh đạm. Chính ngài bảo đã tìm thấy những nguyên lý và giá trị đạo đức của sự ăn chay qua các tác phẩm của nhà văn Tolstoi.
Trong quyển Moral Basis of Vegetarianism (Căn bản đạo đức của chủ thuyết ăn chay), ngài viết: "Tôi khẳng định rằng thịt không phải là thức ăn thích hợp với con người. Chúng ta không nên sai lầm chạy theo lối sống của các loài cầm thú, nếu chúng ta tự coi mình cao thượng hơn các loài cầm thú đó".
Ngài cũng bảo chính lòng từ bi là nguyên động lực khiến người ta ăn chay và tránh sát sinh hơn là vì lý do sức khỏe Ngài bảo sự tiến bộ về tâm linh đến một mức nào đó, con người sẽ tự ý thức và thương hại mà không giết chóc "những sinh vật bạn bè của chúng ta để thỏa mãn nhu cầu của khẩu vị".
Kịch tác gia nổi tiếng Bernard Shaw (1856 - 1950) đã được giải thưởng về văn học nghệ thuật Nobel năm 1925. Ông cũng ăn chay trường từ năm 25 tuổi. Ông bảo chính những thi phẩm của Shelley đã làm cho ông thức tĩnh và thấy được sự đạo đức trong vấn đề chay lạt.
Ông bảo có lần ông bị bịnh. Bác sĩ khuyến cáo ông hãy bỏ "cái tật xấu ăn chay" đó đi. Nếu không ông sẽ toi mạng vì kiệt sức. Nhưng ông vẫn bất chấp. Ông cũng mặc kệ trước những mỉa mai của bàng dân thiên hạ, vô công rổi nghề. Ông bảo chúng ta không nên quan tâm về sự gièm pha của số người chuyên ăn các thây ma của thú vật ấy. Ông thường trước tác những kịch bản và những văn phẩm liên hệ tới hành vi đạo đức của con người, tới sự sát sanh và những bạo động trên thế giới.
Trong tác phẩm A Modern Utopia (Một thế giới toàn chân hiện đại), ông H.G.Wells còn ước vọng xa hơn: "Trong thế giới toàn thiện đó, loài người sẽ không sát sanh và ăn thịt. Dù trước kia họ có phạm phải. Nhưng giờ đây họ đã vui vẻ vất đi cái tư tưởng của sự sát sanh.
Khi mọi người đều được giáo dục có một trình độ và lý tưởng tốt đẹp thì khó mà tìm thấy một người nào đó có đủ can đảm cầm dao sát hại một con vật khác. Chừng đó tôi sẽ reo vui như một đứa trẻ con và mừng rỡ trông thấy lò sát sanh cuối cùng đã tự đóng cửa".
Albert Einstein (1879 - 1955), nhà bác học nổi danh của thế kỷ thứ 20. Người đã phát minh ra thuyết tương đối và được tặng giải Nobel về vật lý học năm 1921 cũng là một người ăn chay trường. Tuy ông chánh thức không theo tín ngưỡng nào nhưng là một người rất sùng đạo.
Ông tin có Thượng Đế và vũ trụ này được điều khiển bởi một cơ Trời huyền diệu. Nếu không thì mọi sự vận hành trong vũ trụ sẽ loạn lên và không theo một quy luật nhất định. Ông là một người yêu chuộng hòa bình, tôn trọng sự sống của muôn loài và đã từng phát biểu: "Không gì ích lợi cho sức khỏe của con người để có cơ hội sống lâu trên quả địa cầu này bằng cách ăn chay".
Văn hào Isaac Bashivis Singer (sinh năm 1904), từng đoạt giải thưởng văn học nghệ thuật Nobel năm 1978 đã thọ chay trường từ năm 1962. Lúc đó ông vừa đúng 58 tuổi. Ông bảo ông rất lấy làm hối tiếc vì đã kéo dài thời gian ăn mặn quá lâu. Nhưng thà muộn còn hơn chẳng bao giờ ăn chay cả. Ông nghĩ rằng thuyết ăn chay để tránh sát sanh cũng cũng cùng hòa hợp với sự uyển chuyển huyền vi của Do Thái giáo.
Ông bảo: "Chúng ta đều là con cái của Thượng Đế. Trong khi chúng ta cầu xin Thượng Đế tha tội cho chúng ta, thì ngược lại chúng ta cứ tiếp tục phạm tội sát hại sinh mạng của những động vật khác". Đề cập tới tình trạng sức khỏe có thể bị ảnh hưởng bởi sự ăn chay, ông bảo rằng dó là hoàn toàn dựa trên ý thức của loài người. Ông cương quyết bảo: "Ngay cả việc ăn mặn có tốt cho cơ thể như thế nào chăng nữa, tôi sẽ không bao giờ chấp nhận.
Rất nhiều triết gia và các nhà truyền giáo trên thế giới đã rao giảng với tín đồ của họ rằng loài thú chẳng qua chỉ là những cái máy không linh hồn và không cảm giác. Những lời rao giảng như vậy là một sự nói láo, là sáng kiến và chủ trương của bọn ma vương và tà đạo mà thôi".

Bài IV
Các tôn giáo lớn trên thế giới hầu như lúc khởi thủy đều răn dạy tín đồ không được sát sanh hại vật và phải luôn luôn thọ trì trai giới.
Nhưng trải qua nhiều thế kỷ, những kinh điển nguyên bản được chép tay truyền lại từ đời này sang đời khác, được chuyển dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau hoặc được hiệu đính bởi nhiều giáo chủ và Hội Đồng Giáo Phẩm thời đại, nên có lẽ đã có phần sai lệch với kinh điển nguyên sơ. Do đó sự cấm sát sinh và thọ trì trai giới không còn được một số tôn giáo chấp hành nghiêm chỉnh.
Để giữ tính cách vô tư, tác giả xin trích dẫn một cách trung thực những tài liệu tham khảo mà không hề din giải, bình phẩm hoặc có quan điểm cá nhân. Nếu có điều gì sơ sót thì đó chẳng qua chỉ là ngoài ý muốn của tác giả. Kính xin quý vị lãnh đạo tinh thần và quý tín hữu các tôn giáo rộng lòng tha thứ.
Theo sử sách, chúng ta thấy rằng ở Ai Cập thuở xưa, các tu sĩ cũng chủ trương ăn chay. Họ kiêng thịt cá và kể cả không ăn trứng nữa, vì họ định nghĩa trứng là một thứ thịt ở trạng thái lỏng (a).
Các tu sĩ này cũng chủ trương sống độc thân và giữ vững lời nguyện xả thân để phục vụ đạo pháp. Mặc dầu trong kinh Cựu Ước, kinh điển nền tảng của Do Thái Giáo, có vài chỗ đề cập tới việc ăn mặn, nhưng tựu trung giáo lý căn bản vẫn dạy tín đồ phải trường chay và không sát sinh hại vật. Trong Sáng Thế Ký (Genesis1:29), quyển đầu của kinh Cựu Ước có đoạn viết: "Chúa phán rằng: Ta đã ban cho các con đầy đủ các loại rau quả và ngũ cốc khắp nơi trên thế giới này. Đó là thức ăn của các con vậy"(b).
Thánh Kinh cũng nói lúc mới tạo thiên lập địa, Thượng Đế cũng không có sáng tạo ra các loài vật này biết ăn thịt các con vật khác. Sáng Thế Ký (1:30) viết tiếp:"Chúa phán: Cùng những loài thú khắp nơi trên địa cầu, những nơi có sự sống, ta đã ban cho các ngươi các loại rau quả và ngũ cốc để ăn. Các ngươi không được ăn thịt"(b). Trong đoạn này ở Sáng Thế Ký (9:4) nhấn mạnh hơn: "Thịt vốn có máu và có sự sống, nên các con không được ăn".(b)
Trong các quyển Thánh Thư, phần lớn những lời rao giảng đều lên án việc ăn thịt. Isaiah (1:15) viết: "Chúa phán rằng: Ta ghét các ngươi cúng dường ta nào là thịt trừu nướng, thịt của những loài thú béo bổ khác. Ta không có thích máu của những con bò mộng, của những con trừu hoặc các con dê đực.
Vì thế khi các ngươi ngửa tay xin tội, ta đã ngoảnh mặt đi. Khi các ngươi cầu nguyện, ta sẽ không nghe. Tại vì bàn tay của các ngươi đã vấy đầy máu"(b). Theo Isaiah (66:3): "Hành động giết chết một con bò chẳng khác gì hành động vặn cổ một con người vậy"(b).
Trong Thánh Kinh cũng có chuyện về Thánh Daniel. Khi còn sanh tiền, có lần ngài đã bị giam trong ngục thất tại thành Babylon, ngài đã từ chối các thức ăn mặn do bọn cai ngục mang tới mà quyết đòi cho được đồ ăn chay mới thôi.(a)
Ngày nay đại đa số trong chúng ta nghĩ rằng Chúa Jesus đã ăn thịt vì đã có một số khoản liên quan đến việc ăn mặn trong kinh Tân Ước. Nhưng nếu chúng ta tra cứu và so sánh với Thánh Kinh nguyên bản bằng tiếng Hy Lạp thì đó chẳng qua chỉ là một sự sai sót trong khi dịch thuật mà thôi (a).
Và đây là lời tiên tri nổi tiếng của Isaiah về sự giáng trần của Đức Chúa Giê-Su: "Hỡi các con! Ta báo tin cho các con biết rằng một vị nữ đồng trinh sẽ thụ thai và sẽ hạ sinh một người con trai. Người con trai đó có tên là Immanuel (tên của Đức Chúa Giê-Su). Bơ và mật ong sẽ là thức ăn chính của ngài. Đó là ý nghĩa Ngài sẽ xua đuổi bọn tà ma quỉ quái và sẽ ban phát những điều lành mà thôi"(b). Thánh Clément cũng thọ trường chay. Ngài đã tán dương vị tông đồ của ngài là Mathew vì ông chỉ dùng những thực phẩm chay như ngài vậy.
Thánh Jérome, người đã dịch Thánh Kinh ra tiếng La Tinh và đã lưu truyền đến ngày nay, đã từng viết: "C? thức ăn chay rất giản dị, d nấu nướng mà lại rất rẻ tiền". Ngài cũng bảo ăn chay là phương cách tốt nhất để chúng ta tu niệm hầu theo đuổi con đường thánh thiện.
Thánh Chrysotom quan niệm ăn thịt sẽ tạo cho con người có bản tính hung dữ và không phải là một tập quán bình thường của người tín đồ Thiên Chúa Giáo. Ngài nói: "Chúng ta đã có thói quen bắt chước theo hành vi của những con chó sói, những con beo. Hoặc giả còn tệ hơn hành vi của chúng nữa. Bản tính bẩm sinh của loài thú đã được an bài như vậy. Còn đối với chúng ta, Thượng Đế đã ban cho cái vinh hạnh được biết nói, biết cảm giác và biết suy nghĩ được sự công bằng và lẽ phải. Nhưng ngược lại chúng ta lại còn xấu xa hơn các loài thú đó nữa" (a).
Thánh Benedict, người đã sáng lập ra giáo phái Benedictine Order vào công nguyên 529, đã quy định các giáo sĩ ở trong giáo hội phải ăn chay trường. Giáo phái Trappist sáng lập từ thế kỷ thứ XVII cũng quy định khắt khe rằng các tín đồ không được ăn thịt động vật và kể cả không ăn trứng nữa.
Quy luật này đã được giải tỏa bởi Hội Đồng Giáo Phẩm Vatican hồi thập niên 1960. Nhưng phần lớn tín đồ của môn phái này vẫn tiếp tục thọ trì trai giới theo giáo lý nguyên thủy. Tuy nhiên hiện thời cũng có một số chủng viện Trappist đã cải cách. Cho phép chăn nuôi gia súc và xẻ thịt bán ngoài thị trường để gây quỹ cho nhà chung (a).
Giáo hội Seventh Day Adventist Church nghiêm cấm các tín đồ sát sinh và ăn mặn. Tiến sĩ John H. Kellogg, tín đồ trung kiên của giáo phái này ở Hoa Kỳ đã cổ xúy mọi người ăn chay. Ông đã cai quản một bệnh viện bằng cách cho các bệnh nhân điều dưỡng chỉ toàn bằng những thức ăn chay mà thôi (a).
Ngoài ra ông Kellogg cũng đã chế biến ra một loại thực phẩm chay rất tiện dụng. Đó là loại cốm giẹp bắp (corn flakes). Ban đầu loại thực phẩm tiện dụng này chỉ lưu hành trong giới giáo hữu, nhưng sau đó nổi danh và hiện thời đã có lắm công ty trên thế giới hoạt động với tính cách tư lập để sản xuất corn flakes hoặc những thức ăn tương tợ cũng lấy nhãn hiệu Kellogg’s.(a)
Quốc gia có số dân ăn chay nhiều nhất trên thế giới phải kể là Ấn Độ, quê hương của đạo Hindus và Phật Giáo. Vốn ảnh hưởng bởi giáo lý tốt lành không sát sanh và không bạo lực, đa số dân Ấn là những người có tín ngưỡng và chấp hành nghiêm chỉnh những giới luật của tôn giáo họ.
Kinh Vệ Đà, tiền thân của các kinh điển Phật giáo, xác quyết rằng ăn chay là nền tảng của đạo đức khả dĩ tránh được các việc bạo động có thể xảy ra. Luật cổ xưa của Ấn Độ Manu-Samhita đã din giải: "Ăn thịt dĩ nhiên phải sát hại sinh mạng của những động vật khác. Sự sát sinh đó sẽ làm ngăn trở con đường tìm đến hạnh phúc của Thiên Đường. Vì thế chúng ta đừng có ăn thịt".
Trong một chương khác, Manu-Sahimta cũng cảnh cáo:"Sự cùm chân và giết chết sinh mạng của nhũng động vật khác để lấy thịt là nguồn gốc của sự hung dữ. Nên chúng ta phải tránh xa ra và đừng có ăn thịt" (a).
Trong những năm gần đây, giáo hội Hare Krishna đã phát động phong trào khuyến khích mọi người ăn chay trên toàn thế giới. Srila Prabhupada, vị lãnh đạo tinh thần của phong trào có lần đã nói: "Luật Manu-Sahimta cũng cấm việc trả thù bằng cách lấy mạng đền mạng. Ngay cả giết một sinh vật nhỏ như con kiến cũng chịu trách nhiệm về hậu quả của nghiệp chướng. Bởi vì chúng ta không sáng tạo ra được những sinh vật đó nên chúng ta không có quyền cướp đi sinh mạng của chúng. Vì thế pháp luật do loài người đặt ra có sự phân biệt giữa sát sinh và sát nhân là một thứ luật lệ không hoàn mỹ. Theo luật công bình của Tạo Hóa, giết chết một sinh vật có tội như giết chết một con người vậy. Chính 10 điều răn trong Thánh Kinh cũng đã dạy không được sát sinh (Thou shalt not kill) là một thứ luật lệ vô cùng hoàn hảo. Nhưng người ta đã cố ý din giải là không sát nhân"(a).
Srila Prabhupada đề cập đến khái niệm trong kinh Vệ Đà nhấn mạnh đến tính cách vạn vật đồng nhất thể như sau: "Tất cả các sinh vật đều là con cái của Thượng Đế, nhưng được khoác dưới những lớp áo có hình thái khác nhau. Thượng Đế là đấng cha lành tối cao của muôn loài. Một người cha thì luôn luôn thương yêu con cái một cách công bằng. Giá có một người con nào đó tâu với cha rằng: Em con nó xấu xí và ngu dốt quá. Xin phép cha cho con giết nó đi. Liệu người cha có bằng lòng hay không? Do đó chúng ta có thể suy nghiệm rằng chắc chắn Thượng Đế cũng sẽ không cho phép chúng ta giết hại sinh mạng của những động vật khác vì chính chúng cũng đều là con cái của Thượng Đế và là anh em của chúng ta"(a).
Trong Phật Giáo, ăn chay để giữ giới sát sanh là một điều rất phổ cập trong dân chúng. Cho nên đối với người Việt Nam mình, hể nói đến ăn chay thì mọi người đều nghĩ ngay tới Phật Giáo.
Trong kinh Pháp Cú, một quyển kinh chứa đựng toàn những lời giáo hóa vàng ngọc của Đức Phật, nơi chương Hình Phạt, Ngài đã dạy: "Không nên giết hại vì ai cũng muốn sống. Đồng thời cũng không nên gây tổn hại cho mọi chúng sinh"(c). Dù chính mình không có trực tiếp cầm dao để sát hại súc vật. Nhưng ăn thịt tức là gián tiếp cổ động người khác sát sinh.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã dạy : "Ông A Nan, nếu các chúng sinh trong các thế giới ở sáu trần mà tâm chẳng sát thì không bị sinh tử nối tiếp. Ông tu tam muội, gốc để vượt khỏi trần lao, nếu sát tâm chẳng trừ thì không thể ra khỏi được. Dù có đa trí, thiền định hiện tiền, nhưng chẳng đoạn nghiệp sát thì quyết sẽ lạc vào thần đạo. Thượng phẩm làm đại lực, quỉ. Trung phẩm làm phi hành dạ xoa, các quỉ xoái. Hạ phẩm làm địa hành la sát. Các quỉ thần ấy cũng có đệ tử, và tự tôn mình là vô thượng đạo. Sau khi tôi diệt độ rồi, nhiều quỉ thần hưng thịnh lên giả dạng làm Phật và nói : Ăn thịt cũng chứng được Bồ Đề"(d).
"Ông A Nan, tôi khiến các tỳ kheo ăn ngũ tịnh nhục. Thịt đó đều do tôi dùng thần lực hóa sanh, nên không có mạng căn. Vì rằng về đất Bà La Môn, phần nhiều ẩm thấp, lại thêm nhiều đá, nên cây cỏ và rau không mọc được. Tôi dùng thần lực đại bi giúp, nhân đức từ bi lớn, giả nói là thịt. Ông được ăn các thứ đó". (d)
"Thế sau khi Như Lai diệt rồi, các Thích Tử lại ăn thịt chúng sanh ?"
"Các ông nên biết : Người ăn thịt đó, dù được tâm khai ngộ giống như tam ma địa, cũng đều bị quả báo đại la sát. Sau khi chết, quyết bị chìm dắm biển khổ sinh tử, chẳng phải là đệ tử của Phật. Những người như vậy giết nhau, ăn nhau. Cái nợ ăn nhau vướng chưa xong, làm sao người ấy thoát ra khỏi Tam giới. Ông dạy người đời tu tam ma địa, phải đoạn nghiệp sát sinh. Ấy gọi là lời dạy rõ ràng....Tôi nói như vậy là Phật nói. Nói không như vậy là ma nói". (d)
Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, bản dịch của đức Minh Trực Thiền Sư, có lời dạy như sau:
"Người tu theo chánh đạo
"Muôn vật chớ tổn thương
"Lỗi mình hay xét thấy
"Mới hiệp đạo chơn thường
"Muôn loài tự có đạo
"Chớ giết hại loài nào
"Lìa đao mà tìm đạo
"Chung thân đạo khó vào"(e)
Cũng theo kinh Pháp Bảo Đàn (Bản dịch của Luật sư Đinh Sĩ Trang), khi ngài Lục Tổ Huệ Năng đến huyện Tào Khê thì bị bọn ác tâm tìm kiếm để hãm hại. Ngài phải lánh sang vùng Tứ Hội để ty?nạn và ở chung với một nhóm thợ săn trong vòng 15 năm.
Trong thời gian này, ngài cũng lợi dụng lúc thuận tiện để thuyết pháp cho bọn chúng nghe. Tuy nhiên nhóm thợ săn đôi khi bắt ngài phải giữ miệng lưới. Mỗi khi có thú lọt vào bẫy thì ngài thả ra hết. Mỗi lần nấu thức ăn thì ngài bất đắc dĩ phải để chung rau vào thịt và sau đó chỉ vớt rau ra ăn mà thôi (f).
Theo đạo Hòa Hảo, trong 10 Điều Tâm Huyết, Đức Phật Thày Tây An đã khuyên người đời ăn chay để giữ hạnh lành như sau :
".....Điều thứ tư Pháp môn quy luật
"Hạnh trường chay cố sức trau giồi
"Thịt là xương máu tanh hôi
"Cỏ cây rau cải cũng rồi bữa ăn
"Đức Từ Bi thường hằng thể hiện
"Không sát sanh lòng thiện ta còn
"Lạt chay tuy chẳng ngọt ngon
"Còn hơn thú vị cơm chan máu hồng....." (e)
Trong đạo Cao Đài, cơ bút của Đức Diêu Trì Kim Mẫu đã viết trong bài Khuyến Nữ Hồi Tâm như sau:
".....Lắm phen rồi mẹ khuyên chay lạt
"Gốc gì đâu sanh sát cấm ngăn
"Cũng tình liên lạc đồng bằng
"Thú cầm vẫn thể linh căn Thượng Hoàng....
"Tuy chẳng nói thân hình giống tạc
"Cũng biết ăn, biết khát, biết đau
"Phơi da lóc thịt làm sao
"Con ơi sao uống huyết đào đàn em....." (e)

PHỤ CHÚ :
a. Theo quyển The Higher Tastes do Giáo hội Hare Krishna Úc Châu ấn tống
b. The New English Bible (Old Testament) do Oxford University Press và Cambridge University Press xuất bản năm 1970
c. Lời Phật Dạy (Kinh Pháp Cú) do Luật sư Đinh Sĩ Trang dịch và ấn tống năm 1998
d. Kinh Lăng Nghiêm do Giáo sư Tuệ Quang và Thượng Tọa Trí Độ dịch, Nhóm Phật tử New South Wales ấn tống năm 2535 Phật Lịch.
e. Tài liệu do Cư sĩ Kỳ Vân cung cấp
Kinh Pháp Bảo Đàn do Luật sư Đinh Sĩ Trang dịch và ấn tống năm 1999.
http://www.quangduc.com/AnChay/0achay02.html#a
Trần Anh Kiệt
         Sydney, 1999

          Xem tiếp:       Ăn chay, Phần 2