65.2
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Dù Khổng
giáo thường được người Trung Quốc tin theo như một tôn giáo, vẫn tồn tại những
cuộc tranh luận về việc liệu đó có phải
là một tôn giáo không, bởi Khổng giáo ít đề cập tới các vấn đề thần học hay
duy linh (quỷ thần, kiếp sau, vân vân).
Các môn
đồ Khổng Tử được chấp nhận chủ yếu bởi họ dựa trên nền tảng quan điểm phổ thông
Trung Quốc. Khổng Tử đề cao mối quan hệ gia đình, thờ cúng tổ tiên, trẻ kính trọng
già, vợ tôn trọng chồng, và gia đình là căn bản cho một chính phủ lý tưởng. Ông
đã tuyên bố rõ nguyên tắc nổi tiếng, "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân" (cái
gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác).
Ông cũng
luôn mơ về thời quá khứ, và thúc giục người Trung Quốc, đặc biệt là tầng lớp
chính trị, tự đổi mới mình dựa trên những hình mẫu quá khứ . nói về triết học của
đức Khổng Tử . Có hai chủ thuyết là nhân sinh quan và vũ trụ quan . Nhân sinh
quan có hai mặt là cơ xuất thế và cơ nhập thế .
Cơ nhập
thế là nói về mười lăm đức , con người phải có đức, nếu không có đức con người
có khác gì cầm thú . Còn về cơ xuất thế là tánh mạng song . Cụ thể trong Trung
Thiên dịch , là cơ năng chuyển hóa từ hậu thiên trở về với Thiên tiên .Trong quẻ
Bát Thuần Càn có câu , Càn đạo biến hóa các Chánh tánh mạng , bảo hiệp Thái hòa
mải lợi tring .....
Con người
có tánh, tức là có tâm hồn là thần trí của ta nó là thể vô hình . còn mạng ta ,
tức là hình thể xác thân là khí huyết . Bên Đạo Giáo gọi là Thần Khí , bên phật
giáo gọi là Tâm tức .
Về vũ trụ quan
tư tưởng
của Ngài là thể hiện bằng tám quẻ . Càn là Trời , Khôn là Đất , Ly là mặt Nhật
, Khảm là mặt Nguyệt ... Như vậy tư tưởng triết lý của Ngài rất siêu nhiên.
Đạo đức
Lý thuyết
đạo đức của Khổng tử dựa trên ba quan niệm chính:
Khi Khổng
tử trưởng thành, lễ được xem là ba khía cạnh sau trong cuộc đời: hiến tế cho thần
thánh, thiết chế chính trị và xã hội, và hành vi hàng ngày. Lễ được xem là quy
phạm đạo đức và hành vi mà Thiên thượng (Trời) chế định cho con người, lấy đó
mà biết việc nào nên làm, việc nào không nên làm.
Đối với
Khổng tử, nghĩa (義 [义]) là nguồn gốc của lễ. Nghĩa chính là cách hành xử
đúng đắn. Trong khi làm việc vì lễ, vị kỷ cá nhân chưa hẳn đã là xấu và người
cư xử theo lễ một cách đúng đắn là người mà cả cuộc đời dựa trên trí. Tức là
thay vì theo đuổi quyền lợi của cá nhân mình, người đó cần phải làm những gì là
hợp lẽ và đạo đức. Trí là làm đúng việc vì một lý do đúng đắn.
Nghĩa dựa
trên quan hệ qua lại. Một ví dụ sống theo nghĩa là tại sao phải để tang cha mẹ
ba năm sau khi chết. Lý do là vì cha mẹ đã phải nuôi dưỡng chăm sóc đưa trẻ
toàn bộ trong suốt ba năm đầu đời, và là người có trí phải đền đáp lại bằng
cách để tang ba năm.
Cũng như
lễ xuất phát từ nghĩa, thì nghĩa cũng xuất phát từ nhân (仁). Nhân
là cách cư xử tốt với mọi người. Hệ thống đạo đức của ông dựa trên lòng vị tha
và hiểu những người khác thay vì là việc cai trị dựa trên luật pháp có được như
một quyền lực thần thánh. Để sống mà được cai trị bằng nhân thì thậm chí còn tốt
hơn là sống trong luật pháp của nghĩa.
Để sống
có nhân thì ta theo nguyên tắc vàng của Khổng tử: ông đã tranh luận rằng người ta phải luôn đối
xử với người khác đúng như những gì họ muốn người khác đối xử với họ. Đức hạnh
theo Khổng tử là dựa trên việc sống hài hòa với mọi người.
Ông áp dụng
nguyên tắc trên như sau: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Cái gì mà ta
không muốn thì đừng làm cho người khác"
Chính trị
Tư tưởng
chính trị Khổng Tử dựa trên tư tưởng đạo đức của ông. Ông cho rằng chính phủ tốt
nhất là chính phủ cai trị bằng "lễ nghĩa" và đạo đức tự nhiên của con
người, chứ không phải bằng vũ lực và mua chuộc. Ông đã giải thích điều đó tại một
trong những đoạn quan trọng nhất ở cuốn Luận Ngữ: 1. "Dùng mệnh lệnh, pháp
luật để dẫn dắt chỉ đạo dân, dùng hình phạt để quản lý dân, làm như vậy tuy có
giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục.
Dùng đạo
đức để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, làm như vậy chẳng
những dân hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, mà còn cam tâm tình nguyện
sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ mặt tư tưởng." (Tứ Thư - Luận Ngữ,
NXB Quân đội Nhân dân 2003) Sự "biết sỉ nhục" là sự mở rộng của trách
nhiệm, nơi mà hành động trừng phạt đi trước hành động xấu xa, chứ không phải đi
sau nó như trong hình thức luật pháp của Pháp gia.
Trong
khi ủng hộ ý tưởng về một vị Hoàng đế đầy quyền lực, có lẽ vì tình trạng hỗn loạn
ở Trung Quốc thời kỳ đó, các triết lý của Khổng Tử chứa đựng một số yếu tố hạn
chế quyền lực của những nhà cai trị. Ông cho rằng lời lẽ phải luôn ngay thật;
vì thế tính trung thực có tầm quan trọng hàng đầu.
Thậm chí
trên nét mặt, phải luôn thể hiện sự trung thực. Khi bàn luận về mối quan hệ giữa
thần dân và nhà vua (hay giữa con và cha), ông nhấn mạnh sự cần thiết phải có sự
tôn trọng của người dưới với người trên. Điều này đòi hỏi người dưới phải đưa
ra lời khuyên cho người trên nếu người trên có hành động sai lầm.
Tư tưởng
này được học trò của ông là Mạnh Tử phát
triển thêm khi nói rằng nếu vua không ra vua, ông ta sẽ mất Thiên mệnh và sẽ phải
bị lật đổ. Vì thế hành động giết bạo chúa là đúng đắn bởi vì kẻ bạo chúa giống
một tên trộm hơn là một vị vua.