Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia
Quan Âm (zh. 觀音, ja.
kannon), nguyên là Quán Thế Âm nhưng do tránh chữ Thế trong tên nhà vua Đường
là Lý Thế Dân nên gọi là Quan Âm hoặc Quán Âm, là tên của Bồ Tát Quán Thế Âm
(zh. 觀世音, sa.
avalokiteśvara) tại Trung Quốc, Việt Nam và các nước lân cận. Phật tử Trung Quốc
thường thờ cúng Quan Âm bên cạnh các vị Bồ Tát Phổ Hiền (zh. 普賢,
sa.samantabhadra), Địa Tạng (zh. 地藏, sa. kṣitigarbha) và Văn-thù-sư-lợi (zh. 文殊師利, sa.
mañjuśrī).
Đó là bốn
vị Đại Bồ Tát của Phật giáo Trung Quốc.
Quan Âm
hiện thân trong mọi hình dạng để cứu độ chúng sinh, nhất là trong các nạn lửa,
nước, quỷ dữ và đao kiếm. Phụ nữ không con cũng hay cầu Quan Âm. Quan Âm cũng
hay được nhắc tới bên cạnh Phật A-di-đà (sa. amitābha) và trong kinh Diệu pháp
liên hoa, phẩm 25 với tên Phổ môn, các công hạnh của Bồ Tát trình bày rõ ràng
và tán thán. Tại Trung Quốc và Việt Nam, Quan Âm hay được diễn tả dưới dạng nữ
nhân.
Trong
thần thoại, văn học bác học (như tác phẩm Tây Du Ký của Trung Quốc), văn học
dân gian, hay trong kinh sách nhà Phật (ví dụ phẩm Phổ môn), thì Quán Thế Âm Bồ
Tát được xem là vị Bố Tát có thần lực nhất, chỉ sau Phật Tổ. Điều này có thể là
do Quán Âm là vị Bồ Tát cứu độ chúng sanh và là Bồ Tát đặc trưng cho tinh thần
của Phật giáo Đại thừa - giác tha, có nghĩa là cứu vớt và giác ngộ người khác -
cho nên có thể Phật giáo Đại thừa đã nâng ngài lên tầm quan trọng như vậy, khác
biệt với Phật giáo Tiểu thừa. Điều này càng làm tăng lòng sùng kính của người
theo đạo Phật đối với Quán Âm. Trong mọi ngôi chùa, thường thì chính giữa
là tượng đức Phật Tổ, hai bên là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ
Tát, tuy nhiên ở ngoài khuôn viên chùa hầu hết đều có tượng đức Phật Tổ hay
Quán Thế Âm mà không thấy hoặc ít thấy hơn tượng của các vị Phật hay Bồ Tát
khác.
Tranh
tượng thường trình bày Quan Âm dưới nhiều dạng khác nhau, nhưng phổ biến nhất
là dạng một vị Bồ Tát nghìn tay nghìn mắt. Có khi Quan Âm ẵm trên tay một đứa
bé, có khi một đồng tử theo hầu. Người ta cũng hay vẽ Quan Âm hiện trong mây,
hoặc cưỡi rồng trên thác nước. Hình ảnh Quan Âm đứng trên một hải đảo cứu người
bị nạn cũng phổ biến, biển cả tượng trưng cho Luân hồi. Tay Quan Âm thường cầm
hoa hoa sen hay bình nước Cam lồ.
Danh
xưng Quán Thế Âm là xuất phát từ một truyền thuyết của Phật giáo, tin rằng những
người tu hành đạt tới chính quả, thì ngũ giác của họ có thể dùng chung được.
Nghĩa là họ có thể dùng tai để "nhìn" thấy hình ảnh, dùng mắt để "nghe"
thấy âm thanh, lưỡi có thể ngửi được v.v. Theo lòng tin này, thì danh xưng Quán
Thế Âm Bồ Tát có nghĩa là: vị Bồ Tát luôn "nhìn thấy" tiếng ai oán,
đau khổ trong bến mê của chúng sinh và sẵn sàng cứu giúp hay nói pháp khi cần.
Theo
quan niệm Trung Quốc, Quan Âm ngự tại Phổ-đà Sơn, miền Đông Trung Quốc, đó là một
trong Tứ đại danh sơn, là bốn trú xứ của bốn Đại Bồ Tát của Phật giáo Trung Quốc.
Tại
Trung Quốc - đến thế kỉ 10 – Quan Âm còn được giữ dưới dạng nam giới, thậm
chí trong hang động ở Đôn Hoàng, người ta thấy tượng Quan Âm để râu. Đến khoảng
thế kỉ thứ 10 thì Quan Âm được vẽ mặc áo trắng, có dạng nữ nhân. Có lẽ điều này
xuất phát từ sự trộn lẫn giữa đạo Phật và đạo Lão trong thời này. Một cách giải
thích khác là ảnh hưởng của Mật tông (xemTantra) trong thời kì này: đó là hai yếu
tố Từ bi (sa. maitrī-karuṇā) và Trí huệ (sa. prajñā) được thể hiện thành hai dạng
nam nữ, mỗi vị Phật hay Bồ Tát trong Mật tông đều có một "quyến
thuộc" nữ nhân. Vị quyến thuộc của Quán Thế Âm được xem là vị nữ thần áo
trắng Đa-la (sa. tārā), và Bạch Y Quan Âm là tên dịch nghĩa của danh từ đó. Kể
từ đó quần chúng Phật tử Trung Quốc khoác cho Quan Âm áo trắng và xem như là vị
Bồ Tát giúp phụ nữ hiếm muộn.
Một
trong các lí do đó là đối với Phật Giáo, Phật không phân biệt nam hay nữ. Khác
với các thần thoại sơ khai quan niệm các vị thần có giới tính và có sự sinh sản, Phật
giáo và các tôn giáo lớn trên thế giới không cho rằng thần của họ có giới tính
và sự sinh sản. Do đó việc quan niệm Quán Âm là nam hay nữ không phải là vấn
đề quan trọng trong Phật giáo. Vả lại, theo phẩm Phổ môn, khi muốn cứu vớt
hoặc giác ngộ cho chúng sinh, Quán Âm có thể hóa thành 32 sắc tướng[1] như Phật,
Bồ Tát, Càn-thát-bà, thiện nam, tín nữ v.v... tùy theo đối tượng để cứu giúp
chúng sanh.
Có rất
nhiều huyền thoại về Bồ Tát Quan Âm. Theo một huyền thoại Trung Quốc thì Quan
Âm là con gái thứ ba của một nhà vua. Lớn lên, mặc dù vua cha ngăn cản nhưng
công chúa quyết đi tu. Cuối cùng vua nổi giận, sai đem giết nàng. Diêm vương
đưa nàng vào địa ngục, ở đó công chúa biến địa ngục thành Tịnh độ, cứu giúp người
hoạn nạn. Diêm Vương thả nàng ra và công chúa tái sinh lại trên núi Phổ-đà biển
Đông và trở thành người cứu độ cho ngư dân. Đến khi vua cha bị bệnh nặng, nàng
cắt thịt đắp lên chỗ bệnh. Nhà vua khỏi bệnh và nhớ ơn, cho tạc tượng nàng.
Tương truyền rằng, vì hiểu lầm ý của nhà vua mà người ta tạc nên bức tượng nghìn
tay nghìn mắt, được lưu truyền đến ngày nay.
Tại
Trung Quốc, các ngư dân thường cầu nguyện Quan Âm để được bình an trong các
chuyến đi đánh cá. Vì thế có Quan Âm cũng có biệt hiệu "Quan Âm Nam Hải".
Quan Âm
Thị Kính
Một sự
tích được phổ biến tại Việt Nam là Quan Âm Thị Kính, kể rằng ngài đã đầu thai
và tu hành 9 kiếp. Trong kiếp thứ 10, ngài được đầu thai làm một con gái trong
một gia đình họ Mãng ở nước Cao Ly (ở bán đảo Triều Tiên ngày nay), và được đặt
tên là Thị Kính.
Thị
Kính được gả cho Thiện Sĩ của gia đình họ Sùng. Khi ở nhà chồng, Thị Kính giữ
phận làm dâu, tôn kính phụng dưỡng bố mẹ chồng. Một hôm, khi Thiện Sĩ đang ngủ
sau khi đọc sách, Thị Kính thấy ở cầm của chồng mình có mọc sợi râu. Thị Kính
đang may vá nên cằm một con dao nhíp trong tay và sẵn tiện cắt đứt sợi râu. Thiện
Sĩ giật mình thức giấc, thấy vợ đang cầm dao gần cổ, tưởng rằng Thị Kính đang định
giết mình nên la lên.
Sau khi
Thị Kính kể lể đầu đuôi, cha mẹ chồng vẫn ngờ rằng Thị Kính có âm mưu giết chồng,
bắt Thiện Sĩ phải bỏ vợ. Thị Kính phải trở về nhà cha mẹ mình, quyết định xuất
gia đi tu. Bà cải trang thành một người nam giới, trốn nhà đến chùa xin đi tu,
lấy pháp danh là Kỉnh Tâm.
Tuy là
gái giả trai, Kính Tâm có tướng mạo đẹp đẽ, cho nên có nhiều tín nữ ngưỡng mộ.
Thị Mầu, con của một trưởng giả giàu có, trêu ghẹo Kính Tâm, nhưng không được
đáp lại. Thị Mầu lại có thai với người đầy tớ. Khi bị tra hỏi, Thị Mầu khai rằng
Kính Tâm là cha của thai nhi. Kính Tâm tuy kêu oan nhưng không dám tiết lộ ra
bí mật của mình. Sau đó, Kính Tâm phải tu ở ngoài cổng chùa để chùa không bị tiếng
tăm.
Thị Mầu
sinh ra được một đứa con trai, đem đứa nhỏ đến chùa gửi cho Kính Tâm. Kính Tâm
vì tính thương người, nhận đứa trẻ vào nuôi dưỡng. Khi đứa trẻ lên 3 tuổi thì
Kính Tâm bị bệnh nặng. Biết mình sắp chết, Kính Tâm dặn dò đứa trẻ đưa thư cho
sư cụ của chùa và cho ông bà họ Mãng.
Sau khi
đọc rõ sự tình, sư cụ kêu người khám xét thi thể Kính Tâm, mới biết rằng Kính
Tâm là gái giả trai. Thị Mầu xấu hổ, đành phải tự tử. Thiện Sĩ ăn năn, bèn đi
tu, sau này biến thành một con chim.
Quan Âm
Bồ Tát (Thị Kính sau khi chết) cũng cứu độ đứa con nuôi, con ruột của Thị Mầu,
đem về Nam Hải, để làm người hầu.
Do đó,
người ta họa hình Quan Thế Âm Bồ Tát đội mũ ni xanh, mặc áo tràng trắng, ngự
trên tòa sen, bên tay mặt có con chim mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, bên dưới có đứa
trẻ bận khôi giáp chắp tay đứng hầu.
Quan Âm
Diệu Thiện
Truyền
thuyết Quan Âm Diệu Thiện được truyền miệng trong dân gian Việt Nam qua lối
truyện thơ. Bài thơ viết theo thể lục bát nói về một vị công chúa đã xuất gia ở
Việt Nam để độ hoá cho vua cha có nhiều tội ác. Sự tích này cũng có một dị bản
lưu hành ở Trung Hoa.
Vị công
chúa này, nguyên ở nước Hùng Lâm thuộc Ấn Độ, là người con gái thứ ba của một vị
vua. Trước khi sinh công chúa Diệu Thiện thì nhà vua rất mong có hoàng tử nên
đã cầu xin rất nhiều nhưng đứa con chào đời lại là một công chúa. Điều này đã
làm cho nhà vua sinh lòng oán hận.
Khác hẳn
hai người chị, nàng công chúa này lớn lên chỉ say mê kinh kệ và có lòng quy y
Phật. Vì cự tuyệt việc lấy chồng nên cô bị giam hãm phía sau hoàng cung. Không
thuyết phục được con mình hoàn tục, vua giả vờ cho phép con tu ở chùa Bạch Tước
rồi ngầm ra lệnh cho các sư sãi phải tìm cách thuyết phục cho công chúa hoàn tục.
Nếu không sẽ giết hết các sư sãi trong chùa. Nhưng mọi cách đều không lung lạc
được ý quyết của công chúa.
Giận
con, vua ra lệnh đốt chùa để giết cô công chúa nhưng trời bỗng có mưa dập tắt lửa.
Chưa hết giận, vua bèn hạ lệnh xử chém, thì trời bỗng giông tố, tạo ra sét đánh
văng búa của đao phủ thủ. Vua tức giận ra lệnh xử giảo công chúa nhưng ngay lúc
đó xuất hiện một con cọp trắng xông ra cõng công chúa mang đến chùa Hương.
Diệu
Thiện tu hành ở đó và cảm hoá được muông thú.
Trong
khi đó, vua trong triều đột nhiên bị chứng bệnh hủi không chữa được, dần dần
hai bàn tay bị rơi rụng và mắt trở nên mù. Công chúa tu đã đến kì đắc đạo trở về
thăm phụ thân và đã hy sinh hai mắt cùng hai tay để cho cha. Sau đó công chúa
nhập Niết Bàn và cứu độ cha mẹ và hai chị cùng thành Phật.
Trong
truyện đã đề cao hai đặc tính của bồ tát, đó là nhân và hiếu. Với
trí huệ và giới hạnh thì hiếu có thể độ giúp cứu thoát được cha mẹ mình, cùng
như nhân có thể độ giúp nhiều người thoát vòng mê lầm trở về với trí huệ.