Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2014

DUY BIỂU HỌC | CHƯƠNG 06: CON ĐƯỜNG TU TẬP


Share on facebook
DUY BIỂU HỌC
Thích Nhất Hạnh
Nhà xuất bản Lá Bối

CHƯƠNG 06: CON ĐƯỜNG TU TẬP

Các bài tụng từ số 41 tới 50 mô tả các phương pháp thực tập. Thiền quán về tự tính y tha khởi - mọi sự đều liên quan chặt chẽ với nhau - có thể giúp chúng ta chuyển đổi vô minh thành trí tuệ. Hàng ngày nếu chúng ta tập nhìn sâu, đưa ánh sáng chánh niệm vào soi chiếu tính chất tương tức tương nhập của mọi sự vật, chúng ta có thể chấm dứt khuynh hướng coi mọi sự là thường hằng bất biến, hoặc có tự ngã riêng biệt. Với trí tuệ đó, chúng ta sẽ nhìn thế giới Ta-bà của vô minh, sinh diệt, không khác gì thế giới của niết bàn, chân như. Hai thế giới đó chỉ là hai bình diện khác nhau của cùng một thực tại. Dù chỉ nhìn sâu vào một sự vật giản dị trong thế giới sinh diệt, ta có thể được giải thoát và tiếp xúc được với thế giới của chân như. Mục đích của thiền quán là đặt chân được vào thế giới của không sinh không diệt, thế giới của chân như. Tiếp xúc sâu sắc được với sóng là ta tiếp xúc được với nước. Tiếp xúc được với thế giới ta bà, ta sẽ tiếp xúc được với chân như. Bụt dạy ta các phương pháp để tiếp xúc với chân như ngay tại đây, trong thế giới Ta-bà này.


Bài tụng 41

Chìa khóa của sự tu tập

Quán chiếu tính y tha
Vô minh thành tuệ giác.
Luân hồi và chân như
Tuy hai mà thành một.

Nếu sống trong chánh niệm để có thể thấy được tính y tha khởi trong lòng sự vật thì chúng ta có thể chuyển vô minh thành tuệ giác. Có chánh niệm về bản chất tương tức tương nhập của vạn hữu là chìa khóa của sự chuyển hóa.
Trong Duy Biểu Học có giáo lý về ba tự tánh. Tự tánh là đối tượng của nhận thức. Tự tánh tiếng Phạn là svabhāva, dịch nghĩa là "bản chất của chính nó", tiếng Anh là the True Nature, the Self Nature.
Tự tánh đầu tiên là tự tánh biến kế (parikalpita, nature of imaginery construction and discrimination). Tự tánh này không phải chính nó tự có mà do vô minh, ngu muội tạo nên. Khi chúng ta buồn, nhìn mặt trăng chúng ta thấy mặt trăng buồn! Tự tánh biến kế là tạo tác của tâm ý. Khi quan niệm thế giới có sinh, có diệt, có thành, có hoại, có một, có nhiều, có đến, có đi... là tạo tác ra những tính chất mà chính thực tại không có. Chúng ta bị giam hãm trong thế giới của vô minh, sinh tử là vì chúng ta đã tạo ra một thế giới mà chúng ta tưởng là thực tại tự thân nhưng kỳ thật chỉ là thế giới biến kế chấp.
Ngược lại với tự tánh biến kế là tự tánh viên thành thật (pariniṣpanna, fulfilled nature). Thế giới của tự tánh viên thành thật là thế giới không có sự tạo tác của tâm ý, không có những khái niệm. Tự tánh viên thành thật là tự tánh đích thực của vạn pháp trong đó không có sinh, không có diệt, không có thành, không có hoại, không có một, không có nhiều, không có đến, không có đi...
Tự tánh thứ ba là tự tánh y tha khởi (paratantra, nature of interdependence). Tha là khác. Y tha khởi là nương vào những cái khác, những hiện tượng khác mà phát khởi. Tự tánh của một bông hoa là một ví dụ của y tha khởi: Hạt giống, mặt trời, đám mây là những điều kiện khác mà bông hoa nương vào để hiện hữu.
Y tha khởi là tự tánh của vạn pháp. Nếu biết quán chiếu tánh y tha khởi của vạn sự, vạn vật thì chúng ta có thể chuyển vô minh thành tuệ giác. Quán chiếu tánh y tha ở đây là sử dụng vô thường quán, vô ngã quán và nhân duyên quán. Vô thường quán cũng là vô ngã quán, và vô ngã quán cũng là nhân duyên quán.
Vô thường, vô ngã
Khi học về Tam Pháp Ấn chúng ta đã thấy rằng khi tiếp xúc được với vô thường, vô ngã của vạn pháp thì có thể tiếp xúc với tự tánh niết bàn của vạn pháp. Có thể nói niết bàn tương đương với tự tánh viên thành thật, tức là tự tánh không sinh, không diệt, không một, không nhiều, không có, không không. Vô thường, vô ngã là đứng về phương diện hiện tượng (phenomenal) mà nói, niết bàn là đứng về phương diện bản thể (noumenal) mà nói.
Vô thường là chìa khóa thứ nhất để mở cửa thực tại về phương diện thời gian. Vô ngã là chìa khóa thứ hai để mở cửa thực tại về phương diện không gian. Tuy là hai nhưng kỳ thực là một.
Thời gian và không gian nương nhau mà thành. Thời gian và không gian cũng có tánh y tha khởi. Muốn thực chứng được thực tại niết bàn thì trước hết phải tiếp xúc với vô thường, vô ngã. Vì vậy cho nên thực tại vô thường, vô ngã tương đương với tự tánh y tha khởi.
Vậy thì tự tánh biến kế chấp nằm ở đâu? Câu trả lời là: Nó hiện hữu do sự tin vào thường, vào ngã. Đó là cái thấy thông tục của những người không có tu học, của những người vô minh. Thực tại đối với họ là có thường và có ngã. Thực tại có thường và có ngã là một thực tại mang màu sắc của biến kế chấp. Vì vậy người tu học phải sử dụng hai chìa khóa vô thường và vô ngã để quán chiếu sự vật và đạt tới cái thấy y tha khởi.
Cho nên giáo lý Tam Pháp Ấn rất quan trọng, nó là chìa khóa để mở cửa Duy Biểu. Phương pháp của chúng ta là thắp sáng chánh niệm trong đời sống hằng ngày. Nhìn cái gì, nghe cái gì, tiếp xúc cái gì cũng phải dùng chánh niệm để có thể thấy được tự tánh y tha khởi trong những sự vật mà mình tiếp xúc, dầu là thân thể, hay hơi thở, hay cảm thọ, hay tâm hành, hay thiên nhiên, sông núi, cây cỏ. Luôn luôn phải sử dụng chánh niệm để có thể thấy được tính chất y tha khởi của tất cả mọi vật.
Quán chiếu y tha khởi
Đối với những hiện tượng tâm lý hay vật lý của chúng ta cũng như của người khác, ta cũng phải nhìn bằng con mắt quán chiếu y tha khởi. Nhìn một bông hoa phải nhìn bằng chánh niệm để thấy được tự tánh y tha của hoa. Nhìn cha, nhìn mẹ, nhìn bạn bè cũng phải thấy cho được tự tánh y tha của cha, mẹ, bạn bè. Em bé đó học giỏi, em bé đó ngoan là vì sao? Phải thấy cho được gốc rễ của cái giỏi, cái ngoan của em. Khi nhìn vào một em bé hư hỏng, du đãng, khó dạy thì phải thấy được tính y tha của em. Đó là hoàn cảnh tổ tiên, gia đình, xã hội, học đường của em. Nhìn em mà thấy được như vậy tức là đã nhìn em bằng con mắt quán chiếu y tha khởi. Bằng không thì chỉ có giận, có buồn, có trách móc, có rầy la thôi. Nếu không thấy được tính y tha của em, thì sẽ không hiểu em. Mà nếu không hiểu thì không thể nào chấp nhận, thương yêu và chuyển hóa em được.
Một người hay giận, hay buồn và cái giận cái buồn của người đó khiến cho chúng ta không được an lạc lắm, rồi chúng ta trách móc. Nhưng nếu nhìn cái giận, cái buồn của người đó bằng con mắt quán chiếu y tha khởi thì hiểu được gốc rễ gần xa của tâm trạng người đó. Tự nhiên chúng ta hiểu và không còn trách móc nữa. Ta có thể chấp nhận, thương yêu và giúp đỡ người kia, cả hai sẽ bớt khổ. Hậu quả tốt đó xảy ra ngay khi ta có cái thấy y tha khởi.
Hãy quán chiếu y tha khởi về án tử hình. Một người phạm tội giết người, cướp của là do nhiều nguyên nhân: do những hạt giống trao truyền, do những hạt giống gieo trồng, do hoàn cảnh xã hội, giáo dục, kinh tế, gia đình. Vì bất lực không thể giúp người ấy chuyển hóa, người ta nghĩ rằng để đối trị với người ấy chỉ có phương pháp duy nhất là đem giết đi. Đó là một sự thua trận. Có thể người ấy không muốn giết người, cướp của nhưng mà có một sức mạnh gì lớn quá thúc đẩy người đó đi tới hành động giết người, cướp của. Cho nên nếu nhìn sâu vào thì ta thấy được tính y tha và có thể khởi tâm từ bi.
Có người đối xử tàn nhẫn, dẫm đạp, chèn ép ta khiến ta oán hận hầu như không thể nào tha thứ được. Nhưng nếu có thể nhìn được bằng con mắt quán chiếu y tha khởi, ta sẽ thấy rằng nếu được sinh ra và lớn lên, được giáo dục trong những điều kiện của người đó, có lẽ chúng ta cũng sẽ hành động như họ. Cái hiểu đó đưa tới lòng bao dung và chúng ta sẽ không giận, không thù hằn. Tâm ta sẽ nhẹ nhàng, nếu có chết đi cũng được bình yên và ít thù hận.
Ngày xưa còn nhỏ, khi đọc kinh, tác giả (Nhất Hạnh) nhận thấy trong những kiếp trước Bụt đã là một vị "tiên nhẫn nhục", bị người ta đem cưa thân thể ra từng mảnh mà Bụt vẫn mỉm cười. Tác giả hồi đó đã nghĩ rằng Bụt không phải là một con người mà là một vị thánh. Làm sao khi bị hành hạ, cưa thân xác ra như vậy mà Bụt vẫn tha thứ được? Vì còn trẻ tác giả đã không hiểu được rằng tại vì Bụt có con mắt quán chiếu, Bụt thấy được những nguyên nhân đưa tới sự tàn ác, bất nhẫn của người kia. Cái thấy đó đưa tới một chất liệu gọi là chất liệu của đại bi, tức là tình thương rất lớn, không còn hờn oán và có thể tha thứ. Người nào không có quán chiếu và chưa nếm được chất liệu của đại bi thì không thể nào hiểu được hành động của vị tiên nhẫn nhục, tiền thân của Bụt.
Trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam, nhiều thanh niên và nhiều vị xuất gia trẻ tuổi đã tham dự các công tác cứu trợ đồng bào, giúp đỡ nạn nhân chiến tranh, phát triển nông thôn. Họ làm việc trong những hoàn cảnh rất khó khăn. Đứng ở giữa hai làn đạn để làm công tác của tình huynh đệ, họ chịu rất nhiều nghi kỵ và hiểu lầm. Nhiều tác viên đã bị giết chết trong hận thù, trong đen tối, trong đó có sư Thật Trí. Lúc đó tác giả đã đi ra ngoại quốc rồi. Khi nhận được tin các người em bị bắt cóc, bị thủ tiêu như vậy, tác giả đã rất đau khổ và thương xót những tác viên. Không biết các tác viên ấy khi chết, đã có được chất liệu tha thứ trong người chưa? Nếu có chất liệu đó, thì trong khi chết, họ có còn đau khổ chút nào không? Nếu không có chất liệu đại bi mà phải chết trong hờn oán thì rất tội cho họ. Tác giả đã viết một bài thơ, là bài thơ Dặn Dò gửi cho các tác viên khác quán chiếu. Dặn dò rằng "Nếu mà em phải chết, thì chết như thế này":
Dặn dò
Xin hứa với tôi hôm nay
Trên đầu chúng ta có mặt trời
Và buổi trưa đứng bóng
Rằng không bao giờ em thù hận con người.
Dù con người
có đổ chụp lên đầu em
cả ngọn núi hận thù
Dù con người
giết em
Dù con người
dẫm lên mạng sống của em
như là dẫm lên giun dế
Dù con người móc mật, moi gan em
đày ải em vào hang sâu tủi nhục
Em vẫn phải nhớ lời tôi căn dặn:
Kẻ thù chúng ta không phải con người.
Xứng đáng chỉ có tình xót thương
vì tôi xin em đừng đòi điều kiện
bởi vì không bao giờ
oán hờn lên tiếng
đối đáp được
sự tàn bạo con người
Có thể ngày mai
trước khuôn mặt bạo tàn,
một mình em đối diện.
Hãy rót cái nhìn dịu hiền
từ đôi mắt
Hãy can đảm
dù không ai hay biết
và nụ cười em
hãy để nở
trong cô đơn
trong đau thương thống thiết
Những người yêu em
dù lênh đênh
qua ngàn trùng sinh diệt
vẫn sẽ nhìn thấy em.
Tôi sẽ đi một mình
đầu tôi cúi xuống
Tình thương yêu
bỗng trở nên bất diệt
Đường xa
và gập ghềnh muôn dặm
Nhưng hai vầng nhật nguyệt
sẽ vẫn còn
để soi bước chân tôi".
Chị Nhất Chi Mai, một trong sáu người Tiếp Hiện đầu tiên (thọ giới năm 1964), trước khi tự thiêu (1967) để kêu gọi hai phe lâm chiến ngồi lại với nhau đã đọc bài thơ đó vào máy ghi âm hai lần.
Khi quán chiếu tính y tha khởi và thấy được con người cũng là nạn nhân của gia đình, xã hội, của hoàn cảnh thì tự nhiên có cái hiểu. Có cái hiểu thì tự nhiên có thương xót và tha thứ. Cái hiểu đưa tới cái thương. Thương đây là từ bi. Và khi có từ bi thì không đau khổ, hờn giận, và có tuệ giác. Có chất liệu đại bi ở trong trái tim cũng giống như có nước Cam Lộ. Có nước Cam Lộ thì sẽ không đau khổ, dầu người đó phụ bạc, phản bội hay hại mình. Đại bi là chất liệu của Bồ tát. Khi đi thiền hành mà thấy rằng chân mình sắp đạp lên giun dế và biết ngưng lại là trong người đã có chất liệu đại bi dù là chất liệu đại bi đó đang còn nhỏ bé. Và nếu biết quán chiếu, biết sống đời sống hằng ngày trong tỉnh thức thì chất liệu đại bi đó càng ngày sẽ càng lớn lên.
Kinh Pháp Hoa có một câu năm chữ diễn tả lối sống đó: "mắt thương nhìn cuộc đời" (từ nhãn thị chúng sanh). Mắt thương chỉ có được khi có con mắt hiểu. Hiểu là hoa trái của quán chiếu, là sống chánh niệm, là nhìn mọi hiện tượng bằng con mắt quán chiếu y tha khởi. Từ nhãn (mắt từ bi) thị chúng sanh tức là trí nhãn (mắt trí tuệ) thị chúng sanh. Hiểu đưa đến thương, hiểu và thương là một.
Tuệ giác
Quán chiếu tính y tha, vô minh thành tuệ giác. Vô minh là không hiểu. Tuệ giác là hiểu. Cái nhìn thông tục là cái nhìn "thường và ngã". Đó là cái nhìn sai lầm, có tính cách biến kế. Nó là nền tảng của bao nhiêu hiểu lầm và đau khổ. Đó là cái nhìn biểu lộ sinh/diệt, có/không, một/nhiều, đến/đi.
Muốn thoát khổ thì ta phải dùng chìa khóa vô thường, vô ngã. Vô thường, vô ngã không phải là lý thuyết mà là chìa khóa, là những phương pháp thực tập gọi là vô thường quán và vô ngã quán. Giáo lý vô thường và giáo lý vô ngã chưa phải là tuệ giác về vô thường, vô ngã. Chúng ta có thể hiểu rất rõ, nói rất hay về vô thường, vô ngã nhưng đó chỉ mới là giáo lý mà thôi. Chỉ khi nào dùng chánh niệm mà sống đời sống hằng ngày, quán chiếu sự vật để chứng nghiệm được tự tính vô thường, vô ngã thì mới gọi là tuệ giác vô thường, tuệ giác vô ngã. Cần phải nhấn mạnh lại một lần nữa: Ý niệm vô thường, ý niệm vô ngã không phải là tuệ giác vô thường, không phải là tuệ giác vô ngã.
Tiếp xúc với niết bàn
Khi đã có tuệ giác vô thường và vô ngã rồi thì thấy được tính cách y tha khởi của sự vật. Khi mà tiếp xúc được với tự tánh viên thành thật của sự vật thì tiếp xúc được với niết bàn ngay trong giờ phút hiện tại. Niết bàn không phải là một hiện tượng của tương lai. Niết bàn là tự tánh viên thành thật của sự vật mà sở dĩ chúng ta không tiếp xúc được là vì chúng ta kẹt vào thường và ngã. Nếu quán chiếu sự vật bằng vô thường quán và vô ngã quán thì có thể tiếp xúc với niết bàn ngay bây giờ và ở đây. Vô thường, vô ngã là tướng, niết bàn là thể.
Trở lại ví dụ về đồng bạc cắc. Ta ví vô thường là mặt sấp của đồng bạc cắc, vô ngã là mặt ngửa của đồng bạc cắc và niết bàn là chất kim khí của đồng bạc cắc. Hai mặt sấp, ngửa là phần tướng, chất kim khí là phần thểVô thường, vô ngã là tướng, niết bàn là thể. Nhưng mỗi khi chạm vào mặt sấp hay mặt ngửa của đồng bạc cắc thì đồng thời cũng chạm vào chất kim khí của đồng bạc cắc. Vì vậy khi chạm vào tự tánh vô thường, vô ngã của sự vật thì cũng chạm ngay vào niết bàn, khi chạm vào tính y tha thì chạm vào tính viên thành thật. Y tha và niết bàn, tuy hai mà một.
Tự tánh y tha và tự tánh niết bàn tuy hai mà một. Chạm vào một cái là chạm vào cái kia. Cũng như sóng và nước, chạm vào sóng tức là chạm vào nước. Ở trong Ba Mươi Bài Tụng Duy Biểu của Thầy Thế Thân có câu nói lên ý nghĩa này: "Tự tánh viên thành thật và tự tánh y tha khởi, không phải là một mà cũng không phải là khác" (Cố thử dữ y tha, phi dị phi bất dị). Tự tánh viên thành thật, tự tánh niết bàn là một với tự tánh y tha khởi của sự vật. Nhờ y tha khởi mà đi vào được viên thành thật. Cũng giống như nhờ cửa mà vào được nhà, nhưng cửa cũng là nhà.
Chìa khóa của sự tu tập.
Đến đây chúng ta thấy rõ chìa khóa của sự tu tập, thấy rõ con đường tu tập. Tức là phải sống đời sống hằng ngày như thế nào để thắp lên ánh sáng của chánh niệm. Lúc ngồi thiền, giặt áo, lúc lau nhà, ăn cơm, phải làm tất cả những điều đó trong chánh niệm. Dùng chánh niệm làm ánh sáng để tiếp xúc với vạn sự, vạn vật ở trong mình và xung quanh mình trên phương diện tâm lý, sinh lý cũng như vật lý. Do đó, ta sẽ thấy được tánh y tha khởi của tất cả những gì mình tiếp xúc, trong đó có bản thân. Đó là con đường duy nhất có thể chuyển vô minh thành tuệ giác, chuyển hận thù thành tình thương, chuyển khổ đau thành hạnh phúc, an lạc. Chỉ có một con đường đó thôi!
Luân hồi và chân như, tuy hai mà một.
Luân hồi có gốc rễ nơi nhận thức thường và ngã, nơi biến kế chấp. Vì nhận thức thường và ngã, vì biến kế chấp cho nên có nhiều vô minh. Vô minh đưa tới luân hồi. Trong khi đó, nếu quán chiếu tự tánh y tha khởi của vạn vật thì thấy được tự tánh viên thành thật. Cái nhìn ấy đem tới sự giải phóng, không còn kẹt vào những ý niệm về thường/đoạn, có/không, sinh/diệt, một/nhiều....
Lấy ví dụ về cái chết. Cái chết thuộc về cặp sinh-diệt. Nó là một đe dọa thường xuyên. Chúng ta lâu lâu lại nhớ: "Nay mai thế nào ta cũng chết". Nhưng dầu cho không nhớ đi nữa thì cái ý niệm sợ chết vẫn có mặt thăm thẳm trong chiều sâu tâm thức và âm thầm điều khiển cách hành xử hằng ngày của chúng ta. Tu tập là dùng ánh sáng chánh niệm soi vào thực tại để thấy rằng không có sinh và không có diệt. Chúng ta đã nói nhiều lần rằng sinh nghĩa là từ không gì cả mà thành một cái gì. Và diệt là từ chỗ mình là một người nào đó mà trở thành không có gì hết. Đó là ý niệm về sinh diệt.
Nếu chúng ta dùng mắt quán chiếu y tha khởi mà đi sâu vào lòng sự vật thì chúng ta thấy rằng ý niệm sinh diệt là vô minh, là sai lầm. Không thể nào từ cái không mà thành cái có được. Một nhà bác học Pháp có nói : "Rien ne se perd, rien ne se crée" (Không có gì sinh, không có gì diệt). Khoa học mà còn thấy như vậy, huống hồ là trong đạo học khi sử dụng quán chiếu tính y tha!
Một khi ý niệm về sinh và về diệt đã bị đập tan rồi thì không còn sợ chết nữa. Chúng ta cảm thấy thảnh thơi, và luân hồi trở thành chân như. Luân hồi, chân như tuy hai mà một. Chân như chẳng qua chỉ là luân hồi chuyển thành mà thôi.
Sư Vân Phong đời nhà Lý tới hỏi thầy là thiền sư Thiện Hội: "Bạch Thầy, đi tìm bất sinh, bất diệt ở chỗ nào?" Vị thiền sư trả lời: "Tìm ngay ở chỗ sinh diệt".

Bài tụng 42

Hoa và rác
Trong rác sẵn có hoa
Trong hoa sẵn có rác
Hoa và rác không hai
Mê và giác tương tức.

Hình ảnh hoa và rác được dùng để ví dụ cho giác ngộ và mê mờ. Thường thường chúng ta nghĩ rằng giác ngộ không dính gì đến mê mờ và có khuynh hướng tách riêng giác ngộ ra khỏi mê mờ. Nhưng giác là gì? Giác khởi từ mê mà có. Nếu không có mê thì không có giác. Cũng như hai đầu phải và trái của một cây bút. Hễ có phải thì phải có trái và ngược lại. Phải và trái tương tức. Phải và trái có tính chất y tha. Cái này do cái kia mà thành, cái kia do cái này mà thành. Phải thấy cho được điều đó. Cho nên nói rằng tôi muốn chấm dứt luân hồi, tôi chỉ chấp nhận giải thoát mà thôi là chưa thấy được tự tánh tự y tha. Các tổ nhiều lần đã nói rằng: "Tịnh độ nằm ngay ở trong tâm". Tâm thanh tịnh thì cõi này tự nhiên thành tịnh độ.
Vô tác
Bỏ cái này để chạy theo cái khác là trái chống với hết thảy các giáo lý căn bản của Đạo Bụt. Lấy ví dụ về giáo lý vô tác (apranihita, aimless-ness). Vô tác là không chạy theo một cái gì. Khi chạy theo một cái tức là muốn bỏ một cái. Ví như mình muốn thành Phật chẳng hạn. "Tôi không muốn làm phàm phu nữa, tôi chỉ muốn làm Phật". Đó là một đòi hỏi chính đáng của người tu. Nhưng quan niệm đó chứng tỏ là mình chưa tu. Tại vì Đạo Bụt dạy rằng mình phải thực tập vô tác.
Nếu muốn bỏ một cái để đi tìm một cái khác thì không thể tìm thấy cái khác đó được. Cái khác này Bụt dạy phải tìm ở trong cái kia. Niết bàn phải tìm trong luân hồi. Nước phải tìm trong sóng.
Phiền não tức Bồ đề.
Có một câu nói khá phổ thông, nhưng ít người hiểu được: "Phiền não tức Bồ đề". Phiền não là những tâm trạng khổ đau, là những tâm sở bất thiện. Muốn tìm Bồ đề thì phải nắm lấy những phiền não ấy mà chuyển hóa, nếu không thì không thể nào có Bồ đề. Đó là giáo lý tương tức. Giác với mê là một.
Khi sắp chết khát mà chỉ có một ly nước trong đó có bùn. Nếu đổ ly nước đi thì lấy đâu nước để uống? Phải tìm cách lọc ly nước bùn cho trong để uống vậy. Cho nên tất cả những phiền não, tất cả những gì có mặt hôm nay trong thế giới, trong thân tâm của chúng ta, chúng ta phải chấp nhận hết để chuyển hóa. Đừng trốn chạy để đi tìm một cái khác, để đi tìm một cõi tịnh độ, một cõi thiên đường ở một nơi nào xa xôi. Như vậy mới đúng theo con đường Bụt dạy. Địa, thủy, hỏa, phong, không gian, thời gian, phương hướng tất cả đều nằm ở trong Thức. Chúng ta nghĩ rằng cõi Tịnh Độ nằm ở phương Tây và đi tìm một cõi ở phương Tây mà không biết rằng phương Tây cũng nằm ở phương Đông. Phương Tây và phương Đông tương tức.
Không thể nào thoát khỏi cái mà mình đang ghét được, chỉ có thể chuyển cái ghét thành ra cái thương mà thôi. Cũng như khi làm vườn mà biết chuyển rác thành hoa. Những phiền não, những hoàn cảnh đau thương mình phải chấp nhận, phải nắm lấy mà chuyển hóa thành an lạc, hạnh phúc, giải thoát. Giác và mê tương tức. Giác nằm trong mê. Bồ đề nằm trong phiền não.
Nhận thức được điều này chúng ta sẽ thấy sự khác biệt giữa Đạo Bụt với một số lớn các tôn giáo khác. Bụt đã dạy chúng ta phải chấp nhận cái bây giờ và ở đây, dầu cho cái bây giờ và ở đây chứa đựng khổ đau, phiền não. Nếu không chấp nhận thì chúng ta đánh mất cái mà chúng ta đang tìm, vì cái giác được làm bằng cái mê, hạnh phúc được làm bằng khổ đau, chân như được làm bằng luân hồi.
Chấp nhận bây giờ và ở đây là điều kiện tiên quyết của sự thực tập. Chấp nhận được rồi thì tuy chưa thực tập mà đã bắt đầu có an lạc. Bài kệ 42 này đã đem ý niệm tương tức áp dụng vào sự tu học. Nhiều người tu Tịnh Độ 20, 30 năm mà vẫn không đạt đạo, cứ nghĩ rằng tịnh độ là một cõi hoàn toàn khác biệt, xa cách không có dính líu tới cõi này. Sống trong cõi Ta-bà này có nhiều khổ đau, nhiều bất như ý rồi sinh tâm chán ghét và chỉ mong cầu tới cõi kia, cái cõi ở một không gian khác. Xét cho cùng thì quan niệm đó không phù hợp với giáo lý căn bản của Đạo Bụt.
Trong trại học tập cải tạo, tất cả mọi người đều bị bó buộc phải tuân theo những người lính gác, những ông cán bộ. Nếu cứ nghĩ rằng hạnh phúc chỉ có được khi nào rời khỏi trại thì những giờ phút ở trong trại sẽ vô cùng đau khổ. Trái lại nếu nghĩ rằng "Bây giờ ta đang ở trong trại học tập cải tạo, không có cơ hội thoát. Vậy ta phải chấp nhận trại này và làm cho trại này thành ra một chỗ dễ chịu nhất mà ta có thể làm được" thì ta bắt đầu có an lạc, có hạnh phúc. Người đó có thể thực tập hơi thở, thực tập bước chân chánh niệm và có thể có sức khỏe và an lạc mà người khác không thể có. Đã có người cho biết rằng họ đã thực tập thiền quán trong trại tù nhưng những người gác tù cho đó là một hình thức thách đố. Và những người ấy phải đợi đến lúc ban đêm, sau khi tắt đèn để ngồi thiền. Ngồi trong tư thế kiết già trong tù, tự nhiên cái thế giới khổ đau biến thành thế giới an lạc. Hoặc là mặc dầu không ngồi trong tư thế kiết già đi nữa mà chỉ nằm xuống trong tư thế thoải mái, để cho thân tâm buông thư là đỡ khổ hơn những người khác lắm rồi.
Chấp nhận "bây giờ và ở đây" không có nghĩa là bó tay chịu chết. Chấp nhận bây giờ và ở đây là để mình có một cái thấy sâu sắc, để có khả năng chuyển hóa được tới chừng nào hay chừng đó cái hoàn cảnh đang sống. Đó là đích thực tu học. Còn nếu cứ nghĩ rằng sau này ra khỏi trại cải tạo về nhà mình sẽ không màng chi danh lợi, mình sẽ lập một cái chùa, một cái am để tu thì điều đó không bao giờ tới cả. Tóm lại, điều chúng ta học được trước tiên là phải chấp nhận bây giờ và ở đây, phải thực tập ngay trong giờ phút hiện tại và ở đây để chuyển hóa.

Bài tụng 43

Chứng nhập tương tức
Không trốn chạy sinh tử
Quán chiếu cần niệm lực
Thấy được tính y tha
Là chứng nhập tương tức.

Không trốn chạy sinh tử: Đây là một kết luận tất yếu của bài tụng trước. Vì bất sinh, bất diệt nằm trong sinh tử cho nên trốn chạy sinh tử thì không bao giờ nắm được cái bất sinh, bất diệt. Đó là nguyên tắc tương tức.
Quán chiếu cần niệm lực: Công việc của quán chiếu cần phải có năng lực. Đó là chánh niệm. Chánh niệm gọi là niệm lực. Không có niệm lực thì không thể quán chiếu. Cho nên phải tập thế nào để trong đời sống hằng ngày mình tạo ra được niệm lực. Niệm lực là một trong năm lực: Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực và tuệ lực.
Tín là niềm tin nhưng không phải là niềm tin mù quáng. Tín đưa tới sự hăng hái, ý chí mãnh liệt, là tấn lực. Từ đó mới có thể biến chế ra niệm lực còn gọi là chánh niệm. Hễ có niệm là có định. Định ở đây là định quán chiếu. Quán chiếu tính y tha khởi của sự vật. Định vững chãi (định thiền) sẽ đưa tới tuệ giác, gọi là tuệ lực. Tuệ giác trở lại giúp cho tín tâm thêm vững mạnh. Như vậy, năm lực đều tương tức nhau.
Chứng nhập tương tức, tương nhập.
Sống chánh niệm và quán chiếu mọi hiện tượng, mọi sự vật trong ta và xung quanh ta và khi chứng nhập được tính y tha là chứng nhập được tính tương tức, tương nhập của mọi sự, mọi vật. Vì vậy niết bàn không phải không có trong hiện tại và sẽ có trong tương lai.
Niết bàn có mặt bây giờ và ở đây. Nó nằm trong cái bàn, trong cái ghế, trong cái nhà, nó nằm trong hòn núi, trong đám mây, nó nằm trong mỗi tế bào của cơ thể chúng ta. Nếu đưa ngón tay ra cho khéo thì chúng ta tiếp xúc được niết bàn. Ngón tay đó là ngón tay y tha khởi. Tức là vô thường quán và vô ngã quán. Vô thường quán, vô ngã quán mở cửa niết bàn, giúp chúng ta tiếp xúc được tự tánh niết bàn của sự vật.
Có thể các tôn giáo khác cũng có ý niệm về niết bàn mà họ gọi là Thượng Đế hay là Nước Chúa. Nhưng có những nhà thần học nói rằng nước Chúa nằm ngay trong lòng mình, có thể tiếp xúc bất cứ lúc nào. Niết bàn cũng vậy, niết bàn là tự tánh viên thành của tất cả vạn sự vạn vật, nó có ngay bây giờ và ở đây. Chỉ tại vì kẹt vào ý niệm thường và ngã cho nên không tiếp xúc được mà thôi. Vì vậy cho nên, sử dụng vô thường quán, vô ngã quán, và y tha khởi quán thì có thể tiếp xúc với niết bàn ngay trong hiện tại. Tiếp xúc được niết bàn là thoát ly sinh tử. Tiếp xúc được với sóng là tiếp xúc được với nước.

Bài tụng 44

Đoá hoa chánh kiến
Nương hơi thở chánh niệm
Tưới hạt giống Bồ đề,
Chánh kiến là đóa hoa
Nở trên vùng ý thức.

Hạt giống Bồ đề: Đối tượng của niềm tin là hạt giống Bồ đề ở trong tâm thức. Đây không phải là niềm tin vu vơ không căn cứ, không kiểm chứng.
Bồ đề (bodhi) có nghĩa là tỉnh thức, giác ngộ. Hạt giống Bồ đề là hạt giống giác ngộ, hạt giống hiểu. Hạt giống hiểu đưa tới hạt giống thương, hạt giống bừng tỉnh. Nó là một với chánh niệm. Phương pháp của chúng ta là dùng hơi thở để nuôi dưỡng chánh niệm.
Chánh niệm
Chánh niệm là nước tưới rất mầu nhiệm tưới lên hạt Bồ đề. Càng tưới càng lớn. Một cộng đồng tu học mà muốn lớn lên, muốn cho tuệ giác và hạnh phúc lớn lên thì phải luôn tưới tẩm tuệ giác và hạnh phúc bằng chánh niệm. Đi, đứng, nằm, ngồi, nói chuyện luôn luôn phải có chánh niệm. Phải tin chắc rằng mỗi ngày mình phải lớn lên. Lớn lên được là nhờ sống chánh niệm mỗi ngày. Phải tin tưởng như vậy và hãy kiểm chứng sự tin tưởng của mình.
Chánh kiến
Có tám con đường của sự hành trì chân chính, gọi là Bát chánh đạo. Chánh kiến là sự hành trì chân chính đầu tiên, là cái thấy đúng với sự thật (right understanding). Chánh kiến là tuệ. Nhưng mà tuệ ở đây không phải là tuệ nằm trong A-lại-gia thức. Tuệ ở đây là cái thấy rõ ràng, cái thấy nằm trên vùng ý thức.
Trong A-lại-gia thức có hạt giống bồ đề, hạt giống hiểu biết, hạt giống thương yêu. Thức thứ sáu (Thức) đóng vai người làm vườn tưới tẩm các hạt giống. Người làm vườn phải tin tưởng nơi đất, đó gọi là tín. Người làm vườn phải siêng năng tưới tẩm, đó gọi là tấn. Ăn cơm, uống nước, thiền hành, tất cả là để tưới tẩm những hạt giống bồ đề.
"Lên non vùi hạt bồ đề, xôn xao để lại dưới kia bụi hồng". Không cần lo những chuyện khác, chỉ lo một chuyện thôi là vùi hạt bồ đề xuống và tưới tẩm. Hạt sẽ nẩy mầm, lớn lên và một mai kia đóa hoa giác ngộ sẽ nở bừng trong vùng ý thức. Không cần phải kêu gọi.
Trong thiền viện, khi tiếp nhận một công án Thầy cho, thì phải "vùi" công án đó xuống "mảnh đất" tàng thức. Nếu giữ công án đó trong thức thứ sáu thì chỉ đánh bóng chuyền với công án mà thôi, chứ không phải tu học. Dùng trí năng để mà suy nghĩ công án không phải là tu, chỉ là lý luận thôi. Sau khi vùi hạt giống bồ đề vào tàng thức (tức là ôm ấp, giữ gìn hạt giống), thì phải "tưới tẩm". Mỗi ngày đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc trong chánh niệm, hướng chánh niệm vào công án, tức là tưới công án và chỉ tưới công án mà thôi. Chỉ cần chánh niệm thôi thì tự nhiên A-lại-gia có khả năng nuôi dưỡng và làm lớn lên. Và một ngày nào đó, chỉ nghe một tiếng động hoặc va chạm một vật gì đó, tự nhiên bừng tỉnh hiểu biết. Đó gọi là giác ngộ, tiếng Nhật là Satori. Satori có nghĩa là ngộ. Ngộ là tự nhiên mà hiểu được. Bao nhiên năm mờ mịt chỉ một phút giây mà sáng tỏ.
Chuyện tụng kinh cũng giống như thế. Có những kinh tụng mười năm, hai mươi năm mà không thấy gì, tự nhiên, một buổi nào đó, tụng tới một câu và ta chợt hiểu. Đó là tuệ giác, là "đóa hoa" trên vùng ý thức. Trước đó, bao nhiêu lần đọc kinh mà không hiểu là chỉ vì mình không tưới, không dồn chánh niệm vào câu kinh, mình chỉ tụng thôi. Cũng như vào rừng tìm hoa lan, hoa lan đẹp có ngay đó mà ta đi ngang hoài vẫn không thấy. Yếu tố chính là chánh niệm.
Khi học về tám sự hành trì chân chính, chúng ta có nói rằng chánh kiến là khởi đầu của sự tu học. Phải có cái thấy chân chính rồi mới bắt đầu tu được. Điều này cũng không hẳn là đúng.
Chánh kiến vừa là nhân, vừa là quả. Chánh kiến là hạt mầm, cũng là hoa trái của sự tu tập. Bắt đầu bằng một cái thấy chân chánh nhỏ bé rồi tiếp tục tu tập chánh tinh tấn, chánh định, chánh niệm. Càng tu tập thì chánh kiến càng lớn hơn. Chánh kiến càng lớn sẽ làm cho chánh tư duy, chánh ngữ, chánh niệm, chánh định, chánh tinh tấn v..v.. càng lớn, hành trì càng giỏi. Hành trì càng giỏi thì chánh kiến càng sáng ra.
Chánh kiến là đóa hoa mà A-lại-gia thức cống hiến cho chúng ta, trên bình diện ý thức. Trong A-lại-gia thức đã có hạt giống chánh kiến rồi, nên nhờ tu tập, hoa chánh kiến sẽ nở trên vùng ý thức. Đây là phương pháp hành trì rất thực tiễn.

Bài tụng 45

Mặt trời chánh niệm
Như ánh sáng mặt trời
Chiếu soi loài cây cảnh
Chánh niệm khi thắp lên
Chuyển hóa mọi tâm hành.

Mặt trời hình như không làm việc gì nhiều ngoài việc soi chiếu các loài thảo mộc. Nhờ có mặt trời mà cây cỏ lớn lên được. Màu xanh lá cây, hoa, trái tất cả đều do mặt trời hiến tặng. Mặt trời là nguồn thực phẩm của loài người và các loài súc vật. Dù ăn chay hay ăn mặn, chúng ta đều "ăn mặt trời".
Chánh niệm chỉ làm một công việc duy nhất như mặt trời là chiếu soi. Chỉ chiếu soi thôi mà chánh niệm nuôi hết mọi sự. Chánh niệm tạo ra một vùng năng lượng. Vùng năng lượng đó có khả năng chuyển hóa mọi tâm hành. Tâm hành tức là tâm sở (citta-saṃskāra) là những hoạt động của tâm ý. Chánh niệm cũng là một tâm hành: tâm hành niệm. Tâm hành niệm là một trong năm tâm sở biệt cảnh: dục, thắng giải, niệm, định, tuệ.
Theo giáo lý tương tức một tâm hành chứa đựng các tâm hành khác. Chánh niệm khi mạnh có thể chuyển hóa những tâm hành khác như mặt trời chuyển hóa cây cỏ. Một bông hoa tulip hay một đóa sen trong hồ tiếp nhận những quang tử (hạt ánh sáng, photon) của mặt trời và sẽ từ từ hé nở. Quang tử của mặt trời là một loại năng lượng có thể đi vào trong đóa sen, phối hợp với nguồn năng lượng khác trong đóa sen và tạo ra hiện tượng hoa sen nở. Tâm hành cũng như cây cỏ, cũng có khả năng tiếp nhận năng lượng của chánh niệm để tự chuyển hóa. Chánh niệm là mặt trời. Khi mặt trời chánh niệm được thắp sáng trên vùng ý thức thì bất cứ một tâm hành nào khởi lên cũng được soi chiếu và chuyển hóa.
Buồn thì buồn mà phải có chánh niệm. Giận thì giận, nhưng phải có chánh niệm. Tôi đang thở vào và biết tôi đang giận. Giây phút đầu tiên khi giận vừa khởi lên thì chưa có niệm. Tu là khi cơn giận khởi lên, ta sẽ không đánh đuổi nó mà chỉ mời chánh niệm lên để săn sóc cái giận đó. Và nếu nuôi chánh niệm được lâu thì cái giận sẽ chuyển hóa. Chuyển hóa được ít hay nhiều là tùy theo sức mạnh của chánh niệm lớn hay nhỏ. Bí quyết của sự tu học là thắp lên mặt trời chánh niệm ở trong vùng ý thức để tưới tẩm, săn sóc, chuyển hóa các tâm hành.
Phương pháp tu không phải là đánh dẹp những tâm hành phiền não, không phải là đuổi nó ra. Đuổi các tâm hành đó ra thì chúng đi đâu? Lẽ tất nhiên, chúng sẽ đi xuống A-lại-gia thức. Mà càng ép thì các tâm hành đó càng lớn. Cho nên đừng đuổi chúng đi. Phải chấp nhận chúng và dùng ánh sáng chánh niệm để tiếp xúc với chúng. Xúc chạm với chánh niệm sẽ tạo ra sự chuyển hóa.
Ba phương pháp chuyển hóa khổ đau.
Có ba phương pháp để chuyển hóa những khổ đau mà mình bị tiếp nhận từ hồi thơ ấu:
Phương pháp thứ nhất là chuyển hóa gián tiếp, bằng cách gieo trồng và tưới tẩm. Nghĩa là cứ để những hạt giống khổ đau nằm yên ở dưới tàng thức và tiếp tục gieo trồng những hạt giống an lạc, hạnh phúc để chúng lớn lên và tự nhiên những hạt giống an lạc, hạnh phúc ấy sẽ chuyển hóa dùm những hạt giống khổ đau.
Phương pháp thứ hai là sống chánh niệm suốt ngày để nhận diện các tập khí. Chúng ta có nhiều tập khí. Thí dụ, vào tiệm ăn tại sao ta cứ chọn ngồi ở cái bàn này mà không ngồi ở bàn kia? Tại sao khi đi nghe pháp thoại ta không ngồi phía đằng trước mà luôn luôn ngồi tận cùng ở đằng sau? Tất cả hầu như là đã an bài, đã được ghi sâu vào tàng thức. Tất cả đã được viết sẵn trong A-lại-gia thức. Khi nó xuất hiện, nếu có chánh niệm thì có thể nhận diện và biết được lý do từ những các hạt giống sẵn có hoặc trao truyền.
Khổ đau cũng vậy. Hồi thơ ấu chúng ta có thể có nhiều đau khổ bởi lý do này hay lý do khác. Hằng ngày những khổ đau của quá khứ xuất đầu lộ diện rất nhiều lần, nhưng chỉ vì không có chánh niệm nên chúng ta không thấy và chúng ta tiếp xử với sự sống hiện tại trên cơ bản những đau khổ, những hạt giống đó. Vậy thì mỗi khi hạt giống đau khổ hiện lên thì phải đón tiếp nó bằng ánh sáng chánh niệm.
Mỗi khi chạm ánh sáng chánh niệm thì những hạt giống đau khổ sẽ yếu đi một chút, rất lạ. Chạm ánh sáng chánh niệm tức là nhận diện. Khi nhận diện ra rồi thì mỗi khi những hạt giống đau khổ ấy hiện lên ở "phòng khách", tức là vùng ý thức, chúng muốn ở trên đó bao lâu cũng được, miễn là cũng có ngọn đèn chánh niệm ở đó, càng lâu càng tốt, vì càng lâu thì năng lượng chánh niệm càng mạnh và sức chuyển hóa càng có hiệu quả. Buồn, lo, sợ tất cả đều là năng lượng. Chánh niệm cũng là năng lượng. Hai nguồn năng lượng ấy khi gặp nhau thì sẽ có chuyển hóa.
Phương pháp thứ ba là mời cái khổ lên và đối diện với nó. Trong kinh có nói tới năm tâm hành sợ mà Bụt dạy để các Thầy, các Sư cô phải tâm niệm, quán chiếu mỗi ngày để chuyển hóa:
- Sợ già
- Sợ bệnh
- Sợ chết
- Sợ phải xa cách những người thương và những gì ta thương.
- Sợ không biết sẽ đi về đâu.
Những cái sợ đó luôn luôn nằm ở trong tàng thức. Dù muốn đè chúng xuống, dù muốn quên đi thì chúng vẫn nằm trong tàng thức. Phương pháp quán chiếu sợ hãi mà Bụt dạy có thể hiểu được dễ dàng dưới ánh sáng của Duy Biểu Học. Khi không có chánh niệm mà những cái sợ ấy hiện lên thì chúng ta sẽ mất tự chủ và sẽ sợ, sẽ khổ. Cho nên phương pháp này là mời những tâm hành sợ hãi đó lên và thắp sáng chánh niệm để quán chiếu:
1/ Tôi thế nào cũng già, tôi biết rằng tôi không thể nào tránh được sự già nua.
2/ Tôi thế nào cũng phải bệnh. Tôi không thể nào không bệnh. Tôi không thể nào tránh thoát được cái bệnh.
3/ Tôi thể nào cũng phải chết. Tôi không thể nào tránh thoát được cái chết.
4/ Tất cả những người tôi thương yêu và tất cả những gì tôi trân quý hôm nay, một mai này tôi đều phải xa lìa và buông bỏ; tôi không thể nào tránh thoát được giờ phút xa lìa và buông bỏ ấy.
5/ Tôi là kẻ thừa tự những nghiệp quả do thân, miệng và ý của tôi tạo nên, và những nghiệp quả ấy là cái duy nhất tôi có thể mang theo với tôi sau này.
Đừng đợi cho những tâm hành đó tự hiện lên! Biết rằng chúng nằm ở dưới tàng thức và chúng ta mời chúng lên. "Mời anh lên chơi, tôi rảnh, chúng ta cùng nói chuyện". Những cái sợ, cái buồn, những thất vọng, những ước mơ không thành tựu, những tiếc nuối, hãy mời chúng lên! Phải đối diện trực tiếp với chúng, miễn là có ánh đèn chánh niệm đàng hoàng. Đừng coi đó là kẻ thù. Chúng là chính mình. Hạnh phúc là mình mà đau khổ cũng là mình. Phải đối xử với các tâm hành ấy với thái độ bất nhị. Thái độ đánh đuổi, kỳ thị là một thái độ chống lại giáo lý bất nhị.
Tu học không phải là biến mình thành một bãi chiến trường: phe chính đánh với phe tà. Có thể là trong một vài truyền thống khác người ta nghĩ rằng tu học là chia con người ra hai phe: phe chính phải đánh với phe tà. Nhưng trong trường hợp Đạo Bụt thì cái mà mình gọi là phe tà chính là mình và mình phải chấp nhận và săn sóc nó. Phiền não tức Bồ đề. Phải chấp nhận phiền não, chăm sóc phiền não để chuyển hóa phiền não. Không phải là vấn đề đánh. Càng đánh thì nó càng mạnh. Càng đè ép thì nó càng lớn. Ở đây, chúng ta thấy rất rõ nguyên tắc tương tức, bất nhị của sự tu học.
Nói tóm lại ba phương pháp chuyển hóa khổ đau là:
Phương pháp thứ nhất: nhờ những hạt giống tốt chuyển hóa dùm.
Phương pháp thứ hai: nhận diện những hạt giống khổ đau khi chúng xuất hiện trên bình diện ý thức (thức thứ sáu).
Phương pháp thứ ba: mời những hạt giống khổ đau lên vùng ý thức.
Ba phương pháp ấy nếu thực hành được cả ba thì rất tốt. Nhưng nếu khi khổ quá, gần tuyệt vọng hoặc chưa thực tập chánh niệm hoặc niệm lực còn yếu thì không nên áp dụng phương pháp thứ ba. Phải thực tập phương pháp thứ nhất thật nhiều và khi nhờ phương pháp này mà chánh niệm đã khá hơn thì sẽ thực tập phương pháp thứ hai nghĩa là cố gắng nhận diện khổ đau khi chúng xuất hiện. Nhận diện được chừng nào thì đau khổ yếu đi chừng đó.
Khi đã có đủ sức mạnh chánh niệm rồi thì sử dụng phương pháp thứ ba. Cũng như khi có một con rắn độc dưới hang mà biết rằng chưa có khả năng bắt rắn thì lấy một cục đá chặn lại, đừng cho con rắn lên. Rồi mình đi học cách bắt rắn. Khi đã học được cách bắt rắn rồi, đã vững mạnh rồi thì có thể bắt rắn an toàn. Khổ đau cũng vậy. Khi nó lớn quá làm mình tê liệt thì không nên mời nó lên sớm mà phải thực tập phương pháp thứ nhất, thứ hai trước đã.
Qua bài tụng này, chúng ta thấy được giáo lý bất nhị, giáo lý tương tức, và phương pháp bất bạo động trong sự tu học cũng như trong hành động hằng ngày.

Bài tụng 46

Nhận diện đơn thuần

Nhận diện để chuyển hóa.
Nội kết và tùy miên.
Khi tập khí không còn
Quả chuyển y hiển hiện.

Nhận diện sự có mặt của một hiện tượng được bắt đầu bằng chánh niệm. Nhờ có chánh niệm chúng ta thấy rõ từng tâm hành đang diễn tiến trong ta.
Nhận diện đơn thuần: Sự nhận diện này không mang tính chất trách móc hay chào đón vui vẻ. Nhận diện mà không khen, không chê và không phán xét. Đây chỉ là một sự nhận diện đơn thuần, tức là 'biết nó có mặt' mà thôi, không kèm theo sự vồ vập hay xua đuổi. Nhận diện đơn thuần cũng được gọi là nhận diện vô tư (mere recognition).
Ví dụ khi mình giận và nếu có chánh niệm thì mình nhận diện: "A! Mình đang giận đây". Đó là công việc đầu tiên của chánh niệm. Nó phát xuất từ cái nhìn bất nhị. Tại vì đối tượng của sự nhận diện đó không phải là ai khác mà là chính mình. Tôi thở vào biết rằng tôi đang thở vào và biết rằng hơi thở vào có đó. Tôi thở ra biết rằng tôi đang thở ra và biết rằng hơi thở ra có đó. Nếu cho là hơi thở ngắn quá hay dài quá, và cố làm cho hơi thở ngắn hơn hay dài hơn thì đó là nhận diện không đơn thuần.
Nhận diện thân, thọ, tâm, pháp:
Tất cả những tâm hành và nhận thức của mình mình phải nhận diện hết, không để cho bất cứ tâm hành hay sự kiện nào trong cơ thể lọt khỏi chánh niệm cả. Trong kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm, tức là Kinh Tứ Niệm Xứ ta thấy có bốn lãnh vực để tu tập. Đó là các lãnh vực thân, thọ, tâm, pháp. Chúng ta thực tập quán thân trong thân, quán thọ trong thọ, quán tâm trong tâm và quán pháp trong pháp. Bốn lãnh vực quán niệm này tương tức, tất cả đều có tương quan với nhau. Một lãnh vực chứa đựng ba lãnh vực kia, không thể chia cắt độc lập. Vậy thì bất cứ hiện tượng nào dù thuộc thân, thọ, tâm hay pháp mà xảy ra trong hiện tại chúng ta phải nhận diện hết
Hộ trì sáu căn
Công việc của nhận diện là công việc của người lính gác cửa. Hễ có người đi vào là biết người đó đi vào. Hễ có người đi ra là biết người đó đi ra. Biết nhưng không ngăn cản.
Chúng ta có sáu cửa: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu cửa đó nếu chúng ta không cho lính gác thì thành trì sẽ bị xâm nhập. Cần phải thắp lên ngọn đèn chánh niệm để soi sáng sáu giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và nhận diện: "A, tôi thấy cái đó", "A, tôi nghe cái đó", "A, tôi nếm cái đó". Như vậy nhờ ánh sáng chánh niệm trấn giữ sáu cửa ải mà chúng ta được an ninh. Chúng ta có bài hát Hộ trì nhãn căn:
"Mắt là đại dương sâu,
với những đợt sóng ngầm,
với những loài thủy quái,
với những trận cuồng phong.
Thuyền tôi đi trong chánh niệm
xin nguyện nắm vững tay chèo để không đắm chìm trong biển sắc mênh mông...
"Cùng hơi thở nhiệm mầu
Tôi hộ trì nhãn căn,
Giữ gìn cho anh và cho tôi,
Để cho ngày hôm nay vẫn còn tươi sáng
Và để ngày mai chúng ta vẫn còn có nhau."
Tai, mũi, lưỡi cũng vậy, thân cũng vậy, ý cũng vậy, là những đại dương sâu với những đợt sóng ngầm, với những loài thủy quái, với những trận cuồng phong. . . Đó là những căn mà ta phải luôn luôn hộ trì. Tu là biết hộ trì sáu căn
Hộ trì sáu căn là một phương pháp mầu nhiệm mà Bụt nói đi nói lại hoài. Người tu mà không biết thắp sáng chánh niệm để hộ trì sáu căn thì không phải là người tu. Ngày xưa, anh Võ Đình Cường có viết một bài trong báo Giác Ngộ: "Một ông thầy tu không tu", tức là ông thầy tu không hộ trì sáu căn. Vậy khi đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo già-lê, làm việc, nấu cơm, rửa bát mà có chánh niệm, mà nhận diện được những gì đang xảy ra trong thân thể thì có thể nói rằng chúng ta đang "quán thân trong thân". Còn nếu đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc, nấu cơm, rửa bát mà không biết là mình đang làm gì thì chúng ta là một ông thầy tu không tu.
Khi có một cảm thọ hoặc vui hoặc buồn, giận, sợ, ghét hoặc cau có thì chúng ta phải nhận diện ngay khi chúng vừa mới phát hiện. Nếu không bị phát giác và nhận diện thì chúng có thể hoành hành mà ta không biết. (ví dụ ta trở thành người cau có gắt gỏng, la anh, la em, nói nặng nhẹ với người mình thương mà không biết). Nếu chúng được nhận diện thì chúng sẽ nằm yên hoặc không tăng trưởng và đi theo chiều hướng có thể chuyển hóa. Biết như vậy thì không bao giờ chúng ta than phiền là ta không có thì giờ để tu. Trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, nấu cơm rửa bát đều có thể làm lớn chánh niệm, nghĩa là phát triển khả năng nhận diện. Nhận diện tất cả những hiện tượng về thân, thọ, tâm, pháp, đó là biết tu.
Có một hôm, một nhà triết học tới hỏi Bụt rằng "Các Thầy trong tu viện của Bụt tu học như thế nào?" Bụt trả lời: "Chúng tôi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, rửa bát". Nhà triết học nói: "Vậy thì có khác gì người thường đâu! Người không tu cũng đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, rửa bát như các Thầy vậy". Bụt nói: "Có khác chứ, khi chúng tôi làm những chuyện đó, chúng tôi có chánh niệm, chúng tôi biết nhận diện và hộ trì sáu căn". Câu nói thật đơn sơ mà cũng thật căn bản.
Cho nên, đừng có ngại tu ở trong chùa phải làm việc nhiều quá và không có thì giờ tu tập. Nếu làm việc với chánh niệm và có sự thanh thản đó là tu. Chỉ sợ làm việc quá mau và muốn làm cho mau xong việc nên đánh mất chánh niệm mà thôi.

Nhận diện để chuyển hóa:
Sự chuyển hóa chỉ có thể xảy ra khi có sự nhận diện. Có nhiều loại chuyển hóa. Có khi chuyển hóa để tâm hành lớn mạnh hơn. Khi ngắm một cây tùng, ta có được một niềm vui nhờ màu xanh tươi mát của cây tùng. Nhưng nếu ta tăng cường chánh niệm trong khi ngắm cây tùng thì niềm vui đó, lạc thọ đó sẽ tăng gấp bội. Nhận diện cây tùng đồng thời nhận diện lạc thọ của ta đối với cây tùng, tự nhiên cây tùng sáng rỡ lên, hiện rõ hơn và lạc thọ theo đó cũng lớn mạnh thêm. Đó là chuyển hóa theo chiều hướng tích cực.
Cùng đi ngắm lá đẹp rừng thu với nhau nhưng lá đẹp nhiều hay ít, niềm vui lớn hay nhỏ tùy người mà khác nhau. Trong một đại chúng tu tập, cùng một khung trời, cùng một số tiện nghi phòng ốc nhưng mức độ an lạc nhiều hay ít cũng tùy người mà khác nhau. Lý do là tùy theo khả năng chánh niệm, tùy theo trình độ thanh thản và tự do của mỗi người.
Có khi chuyển hóa để tâm hành trở thành lợi lạc hơn. Chánh niệm là căn bản, và chánh niệm trước hết là để nhận diện. Khi nhận diện rồi thì tự khắc biết phân biệt, biết những gì đang xẩy ra là lợi lạc, là thiện (wholesome) hay không lợi lạc, là bất thiện (unwholesome). Ví dụ khi có một nỗi buồn dâng lên, ta nhận diện: "Đây là nỗi buồn" và ta mỉm cười với nỗi buồn của ta. Mỉm cười là đủ rồi vì nụ cười đó chứng tỏ rằng ta đã nhận diện nỗi buồn và biết rằng nỗi buồn đó có thể là không lợi lạc, có khi lại là lợi lạc. Nỗi buồn không hẳn lúc nào cũng là điều không lợi lạc. Tùy theo cách sử dụng nỗi buồn có thể trở thành chất liệu của niềm vui về sau. Ví như khi đi ngoài lạnh ta thấy cái lạnh không dễ chịu, nhưng khi vào bếp thì cái ấm sẽ dễ chịu hơn nhiều. Nhờ cái lạnh ngoài trời mà ta tiếp nhận hơi ấm trong nhà bếp rất sâu sắc. Mùa xuân, mùa hè nhà bếp rất ấm mà ta đâu có biết quý gì mấy? Cái lạnh sau lưng làm cho ta trân quý cái ấm.
Nội kết và tùy miên:
Nội kết là kết tụ của vui buồn, thương ghét, khổ đau, là những gút thắt trong tâm. Tham, sân, si, mạn, nghi, kiến đều là những nội kết, cũng còn gọi là sáu thứ tùy miên (anuśaya, latent tendencies) tức là sáu phiền não căn bản. Kiến là một trong những căn bản phiền não. Chúng ta phân biệt thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ kiến. Thân kiến là thói quen nhận cái thân này là mình. Chỉ cái thân này là mình.
Biên kiến là cho phe bên này là mình, bên kia không phải là mình. Tà kiến là những cái nhìn sai lạc. Kiến thủ là nắm chặt cái thấy, cái biết, cái nghe của mình. Cho rằng mình đã nắm được sự thật.
Giới cấm thủ là kẹt vào giới, là vướng vào hình thức và không nắm được bản chất của giới. Những tập tục lâu đời, những "taboos" là những hình thức giới cấm thủ. Bụt dạy rằng nếu không hộ trì sáu căn thì sẽ vướng mắc, sẽ có nội kết. Nội kết tới từ từ và thường thì chúng ta không biết là ta bị nội kết từ bao giờ.
Nội kết thường là không lành mạnh, không lợi lạc, không êm ái. Nhưng cũng có những nội kết gọi là nội kết êm ái. Hút một điếu thuốc hay uống một ly bia đem lại cho ta một cảm thọ êm ái. Nội kết len lén đi vào. Nội kết êm ái đi vào trong ta lúc nào mà ta không biết. Nhưng mà nội kết êm ái luôn luôn đưa tới những chuyện không êm ái. Nếu không có chánh niệm thì ta tiếp tục với những cảm thọ êm ái đó, ta sẽ bị vướng mắc và nội kết hình thành. Đến khi giật mình thì nội kết đã quá lớn và ta đã thành một người nghiện rượu, nghiện bia!
Kiết sử:
Danh từ nội kết được dịch từ tiếng Phạn saṃyojana. Saṃyojana cũng được dịch là kiết sử. Sử có nghĩa là sai sử, sai khiến. "Ma đưa lối, quỷ dẫn đường, lại tìm những chốn đoạn trường mà đi" (Nguyễn Du). Ma quỷ không có ở ngoài. Ma quỷ nằm trong A-lại-gia thức, dưới hình thức của nội kết và thỉnh thoảng phát hiện. Khi phát hiện thì chúng đã có khả năng sai sử chúng ta. Chúng ta hành xử, nói năng như những tên nô lệ cho những kiết sử ấy. "C'est plus fort que moi!; It is stronger than me! Trời ơi, nó mạnh hơn tôi!..." Nó là ai? Nó là những kiết sử.
Gặp một người mới lần đầu mà đã thấy ghét liền. Nếu không có chánh niệm, mình sẽ trôi lăn theo cảm thọ ghét đó. Nhưng nếu có chánh niệm thì mình có cơ hội nhận diện và nhìn sâu vào cảm thọ đó và khám phá ra rằng người đó hơi giống với một người đã từng gây đau khổ cho mình trong quá khứ. Con ma nội kết ở đây chính là người đã từng gây đau khổ cho mình trong quá khứ. Thấy được điều đó ta được giải thoát liền lập tức. Mặc dầu đây chỉ là một giải thoát nhỏ nhưng sự giải thoát đó là do công phu nhận diện.
Tóm lại, sự nhận diện sẽ giúp cho mình hộ trì sáu căn, giúp cho mình giữ được tự do độc lập của mình, không để cho những nội kết 'len chèn' xâm chiếm, sai sử mình, dù cho là thương hay là ghét.

Bài tụng 47

Hiện Pháp Lạc Trú
Phút hiện tại thu nhiếp
Quá khứ và vị lai
Bí quyết của chuyển y
Nằm trong giây hiện tại.

Phút hiện tại thu nhiếp quá khứ và vị lai là giáo lý của Hoa Nghiêm.
Trong kinh Hoa Nghiêm chúng ta được học rằng: "Cái một chứa đựng cái tất cả và thời gian chứa đựng không gian". Giây phút hiện tại là "cái một". Nó nằm trong tầm tay của chúng ta. Đây là một điều căn bản mà tất cả chúng ta đều có thể thấy rõ. Và khi chúng ta tiếp xúc được với giây phút hiện tại thì ta có thể tiếp xúc với tất cả mọi giây phút trong đó có những giây phút quá khứ và những giây phút tương lai. Tại vì giây phút hiện tại thu nhiếp được cả quá khứ và tương lai. Hơn thế nữa, nếu thời gian chứa đựng không gian, như giáo lý Hoa Nghiêm đã dạy, thì giây phút hiện tại chứa đựng được không gian ở tại đây và khắp nơi khác. Cho nên, tuy đứng ở tại Loubès-Bernac (thị xã cư trú của Làng Mai) mà ta có thể tiếp xúc với cả Âu Châu, với cả quả địa cầu rộng lớn.
Bí quyết của chuyển y. Chuyển là chuyển hóa, Y ở đây là A-lại-gia thức.
Những đau khổ, những vô minh trong A-lại-gia thức nằm ngay trong giây phút hiện tại. Phương pháp tu học hay nhất là phương pháp xử lý hiện tại. Nghĩa là nắm lấy giây phút hiện tại, tiếp xúc với giây phút hiện tại, làm cho nó mát, làm cho nó đẹp, chuyển hóa nó.
Không nên nói rằng hôm nay khổ cực, ngày mai mới có an lạc. Đừng có nói rằng chốn của mình không phải là ở đây mà là ở bên Tây phương cực lạc thế giới, chỗ này là chỗ mình phải bỏ, chỗ kia là chỗ mình phải tới. Nói như vậy là mình chỉ mơ tưởng vào tương lai, hay chìm đắm trong quá khứ. Mơ tưởng vào tương lai, hay chìm đắm trong quá khứ không phải là những điều Bụt dạy. Kinh Người Biết Sống Một Mình là một bản văn xưa nhất của nhân loại dạy chúng ta an trú trong hiện tại. Đạo Bụt dạy rằng giây phút trong tầm tay chúng ta là giây phút hiện tại và chúng ta phải sống giây phút đó cho sâu sắc. Sống như thế nào để được an lạc hạnh phúc. Sống như thế nào để cho những đau khổ có thể được chuyển hóa trong giây phút hiện tại. Bụt đã nhiều lần dạy rằng nếu hiện tại mà an lạc thì tương lai tự nhiên sẽ được an lạc.
Như vậy thì không còn gì để nghi ngờ. Hiện Pháp Lạc Trú (có khi gọi là Hiện Pháp Lạc Cư) là danh từ ta luôn luôn phải nhớ. Hiện là bây giờ, là có thể thấy được, có thể tiếp xúc được. Pháp là những hiện tượng. Lạc là hạnh phúc. Trú là ở.
Xét cho kỹ, chúng ta thấy rằng trong hiện tại sẵn có những điều kiện nội tại và ngoại tại đủ cho chúng ta có hạnh phúc. Cố nhiên là cũng có những yếu tố nội tại và ngoại tại của khổ đau. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là những điều kiện của hạnh phúc không có mặt. Nếu suốt ngày tiếp xúc với những yếu tố bệnh tật, khổ đau thôi thì chúng ta sẽ gầy mòn, sẽ chết từ từ.
Có người tự mình giam hãm trong thế giới bệnh hoạn, sầu khổ. Thấy cái gì cũng đau buồn hết. Và những người như vậy không sống sót được. Nhưng người như thế ta phải tìm cách giúp họ làm thế nào để tiếp xúc với những gì lành mạnh, vui tươi xung quanh họ. Có người than phiền rằng cây rừng đã bị đốn hết, không có gì vui tươi hết. Những người đó không thấy rằng vẫn còn có những cây đẹp, còn có những khu rừng đẹp và mình phải biết thưởng thức những cây đẹp, những khu rừng đẹp đó. Mà càng thưởng thức, càng thấy những cây đó đẹp, những khu rừng đó quý, mình lại có sức mạnh để bảo vệ những cây khác, những khu rừng khác đang bị giết chết.
Tiếp xúc với đau khổ chưa đủ, phải tiếp xúc với những mầu nhiệm, lành mạnh. Có một điều chúng ta thấy rõ là trong truyền thống Nam tông, người ta nói nhiều quá về đau khổ (duḥkham). Cứ nói cái gì cũng khổ hết. Nói một hồi người ta khổ thêm. Trong khi đó thì đạo Bụt Bắc tông, đạo Bụt đại thừa, muốn sửa lại sai lầm đó, đã chỉ cho chúng ta tiếp xúc với những gì mang lại hạnh phúc (sukham). Do đó, trong truyền thống đại thừa chúng ta thấy có các thiền sư làm thơ ca ngợi hoa vàng, trúc biếc, bạch vân, minh nguyệt. Họ ca ngợi pháp thân bất diệt, nghĩa là họ nói tới chân như duyên khởi chứ không phải chỉ nói tới vô minh duyên khởi. Chân như duyên khởi luôn luôn biểu hiện ra những gì tươi đẹp.
Vai trò của tăng thân
Cố nhiên trong cuộc sống có nhiều cái đẹp cho ta thưởng thức, nhưng nếu con người mà bị kìm kẹp quá nhiều trong một thế giới khổ đau thì cũng khó lòng mà tiếp xúc được với những cái đẹp. Thấy hoa đẹp, thấy trời xanh huy hoàng mà không tiếp xúc được là vì nỗi sầu đau quá lớn. Có một cái gì như một bức tường ngăn cách không cho ta tiếp xúc được những mầu nhiệm của thiên nhiên. Trong trường hợp đó ta cần phải tới với tăng thân. Chúng ta phải ở trong một tăng thân mà trong đó có những người có thể mỉm cười được, có thể bước những bước chân thảnh thơi, có thể cầm lấy tay ta bằng trìu mến, để có thể hiểu được ta, để cùng ta chia sẻ, và ta có thể được kéo ra khỏi thế giới u buồn, đen tối. Cho nên Tăng Thân là một môi trường rất quan trọng.
Chú thích:
(1). Hiện Pháp Lạc Trú tiếng Phạn là dṛṣṭa-dharma-sukha-vihārin. Dharma là pháp, là thấy được, là sờ mó được, chứng nghiệm được ngay bây giờ. Sukha là an lạc, ngược lại với duḥkha là khổ. Vihārin là trú, là cư. Vihāra có nghĩa là tu viện, là chỗ ở, chỗ giải trí. Có vẻ thảnh thơi, vui thú cũng gọi là vihāra.

Bài tụng 48

Nương tựa Tăng Đoàn

Tu tập và chuyển hóa
Trong đời sống hàng ngày
Nương tựa vào Tăng Đoàn
Công phu mau nhìn thấy.

Sống đời sống hằng ngày một cách bình thường chúng ta vẫn có thể tu tập và chuyển hóa. Tu tập ở đây có nghĩa là thực tập chỉ (śamatha - Stopping) và quán (vipaśyana - Looking deeply).
"Chỉ" tức là ngưng lại. Một câu hỏi được đặt ra ngay là "Ngưng cái gì?". Câu trả lời là "Ngưng sự phóng thể, ngưng chạy như ma đuổi". Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta bị lôi kéo như một nạn nhân bởi những người và hoàn cảnh xung quanh, bởi những suy nghĩ mông lung, những tâm tư buồn giận. Chúng ta không có đời sống cho chính chúng ta. Vì vậy cần phải dừng lại. Có người không cưỡng lại được những sự lôi kéo đó cho đến khi bị tai nạn phải nằm bệnh viện và bắt buộc phải nằm yên một thời gian lâu và nhờ đó mới có cơ hội nhìn lại cuộc đời của mình. Đây là trường hợp bắt buộc phải chỉ.
"Chỉ" trong sự thực tập của chúng ta là tự mình ngưng lại. Và năng lượng giúp chúng ta ngưng lại là chánh niệm. Có những phương tiện giúp chúng ta ngưng lại như tiếng đồng hồ điểm giờ hay tiếng chuông. Đang suy nghĩ miên man, đang buồn, đang giận mà nghe đồng hồ điểm giờ hay tiếng chuông thỉnh lên, chúng ta ngưng lại, thở và mỉm cười: "A, ta đang phiêu lưu!" Chúng ta phiêu lưu theo buồn giận. Chúng ta phiêu lưu trên dòng quên lãng. Chúng ta tự đánh mất chúng ta. Cho nên tiếng chuông là tiếng gọi của Bụt. Bụt ở đây là Bụt trong tự tâm đang gọi chúng ta trở về.
Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe
Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm.
(Listen, listen, this wonderful sound
brings me back to my true home.)
True home - căn nhà của mình, có nghĩa là nơi mình an trú, nơi hiện pháp lạc trú. Chúng ta là những đứa con hoang. Nghe tiếng chuông thì phải trở về căn nhà của chúng ta, nơi giờ phút hiện tại, nơi có an lạc, có hạnh phúc, có giác ngộ. Vì vậy cho nên chỉ là phép tu của tất cả chúng ta. Khi đi thiền hành là thực tập chỉ. Đi mà không cần tới. Khi quét nhà, rửa nồi là thực tập chỉ. Chúng ta sống sâu sắc, sống đích thực trong những giây phút đó.
"Anh đã làm gì đời anh?" Ta đã làm gì đời ta trong mấy chục năm qua? Tại vì ta không biết dừng lại, tại vì chúng ta không biết tu chỉ, năm tháng đã đi qua như một giấc mộng. Ta chưa từng sống được những giây phút sâu sắc, chưa bao giờ đứng lại để ngắm một ngôi sao hay nâng một cành hoa trên tay. Cuộc sống như vậy là quá uổng.
Vậy thì, tu chỉ có nghĩa là ngưng lại sự phiêu lưu và trở về nhà, sống an lạc, không tìm cầu, không mơ ước. Chỉ cần an trú trong hiện tại. An trú trong hiện tại như vậy thì chánh niệm càng mạnh và hạnh phúc càng lớn.
Đang gọt cà rốt trong bếp mà nghe Thầy hỏi "Con đang làm gì đó?" thì phải hiểu rằng đó là một tiếng chuông chánh niệm mà Thầy trao cho mình. Nếu trả lời "Thưa Thầy con đang gọt cà rốt" là hỏng, là không hiểu ý câu hỏi của Thầy. Thầy dư biết mình đang gọt cà rốt. Có thể mình đang phiêu lưu trong khi gọt cà rốt, và câu hỏi của Thầy là để giúp mình dừng lại, giúp mình trở về nhà, trở về nơi an lạc. Nếu mà thông minh thì chỉ cần mỉm cười thôi. Ban đầu chúng ta cần tiếng chuông, tiếng đồng hồ, tiếng điện thoại để giúp chúng ta ngưng lại. Rồi chúng ta nhờ sự có mặt của Sư Anh, Sư Chị, Sư Em. Sự hiện diện của những bạn đồng tu đang thực tập chỉ sẽ giúp cho chúng ngưng lại dễ dàng. Bởi vì một người đang thực tập chỉ sẽ giúp tạo ra không khí chỉ xung quanh mình.
Theo nguyên tắc thì phải an trú ít nhất là ba hơi thở trong khi thực tập chỉ. Nếu thực tập giỏi hơn thì có thể ngưng lại lâu hơn, trong mấy chục phút. Trong mấy chục phút đó, chúng ta ở trong một tình trạng gọi là định - tam muội (samādhi). Tam muội càng nhiều thì chánh niệm càng vững. Trong tam muội cái nhìn của chúng ta, như một luồng ánh sáng quét lên sự vật, sẽ sâu sắc hơn. Cũng như cây đèn pin. Pin càng mạnh thì đèn chiếu càng rõ.
Khi biết dừng lại (chỉ) lâu dài và năng lượng chánh niệm vững mạnh thì chúng ta không những nhận diện mà còn có thể nhìn sâu, thấy rõ. Đó gọi là quán. Chỉ và quán không thể rời nhau được. Trong chỉ đã có một ít quán rồi. Ngưng lại và nhận diện là đã thấy rồi. Và khi đã có quán, có thấy rồi thì nhất định phải có chỉ. Không thể có quán mà không có chỉ. Khi mà mình có "cái thấy" (insight), mình hiểu thấu cội nguồn, tức là có chỉ. Cho nên tu tập, chuyển hóa trong đời sống hằng ngày phải tu tập chỉ và quán.
Nương tựa vào tăng đoàn, công phu mau nhìn thấy. Tu tập mà không có tăng đoàn rất là khó, nhất là khi mình bị giam hãm trong thế giới đau thương, đen tối, không có khả năng tiếp xúc với những gì lành mạnh, tươi vui, trị liệu ở trong mình và xung quanh mình.
Chúng ta thường ca ngợi những người tu một mình, lên núi đóng cửa lại, sống một mình. Chúng ta cho đó là những người tu duy nhất, những người tu thiệt. Nhưng kỳ thực, tu mà không có tăng đoàn khó lắm.
Có những trung tâm tu học mà trong đó không có sự liên hệ giữa những người cùng tu. Mỗi người một mình hạ thủ công phu gắt gao, tu cho thật rục mà không có chuyển hóa gì cả. Tại vì tăng đoàn ở đó không hẳn là một tăng đoàn.
Tăng đoàn phải mang ý nghĩa nâng đỡ lẫn nhau. Chùa chiền ở các quốc gia Á Châu được tổ chức như một gia đình trong đó Thầy được coi như là một người cha, người mẹ, còn người sư huynh là một người anh, sư đệ là một người em. Còn có sư bác, sư chú, sư cô, sư dì. Và như vậy trong truyền thống của chúng ta, môi trường của tăng thân rất là quan trọng. Nếu tăng thân không được thiết lập như một gia đình tâm linh, trong đó mỗi người là một thành phần của gia đình thì công phu tu tập khó thành đạt lắm.
Ở Tây phương thường có những người đến với tăng thân từ một gia đình đổ vỡ, từ một xã hội thác loạn và những người đó không có gốc rễ. Tăng thân đó được thành lập như một sự tụ họp của những hòn đảo riêng biệt, không có tình người, không có không khí ấm áp của gia đình và các thiền sinh của tăng thân đó dù tu tập mười năm, hai mươi năm cũng không có kết quả. Những người đó ở trong gia đình không có gốc rễ, ra ngoài xã hội cũng không có gốc rễ, và đi vào một tăng thân mà lạnh lẽo thì không thể nào có gốc rễ được. Cho nên tăng thân phải được tổ chức như một gia đình trong đó có sự ấm áp, có hạnh phúc, có sự hòa hợp, trong đó mọi người tiếp nhận nhau như anh em, chị em và như thế mỗi thiền sinh mới có cơ hội mọc ra những cái rễ đầu tiên trong cuộc đời mình. Do đó,tăng đoàn phải giúp cho những người mất gốc rễ gia đình cảm nhận được sự hiện diện của một gia đình trong tăng đoàn và cắm được những gốc rễ đầu tiên.
Vấn đề này rất quan trọng ở Tây phương. Những năm vừa qua, trong khi đi giảng dạy, tác giả luôn luôn kêu gọi các trung tâm tu học nên tổ chức những tăng thân có tính cách gia đình. Những người mất gốc khi tới với một tăng thân mà không có không khí đầm ấm thì sẽ mất cơ hội cuối cùng của họ. Ngược lại, khi họ đã mọc rễ và chấp nhận tăng thân như là một gia đình thì họ sẽ trở thành bình thường và họ có thể vui được, hạnh phúc được, và sự tu tập của họ có thể đi xa hơn.
Một vị Thầy dù cho giỏi cách mấy, một vị Đạo sư có giỏi cách mấy mà không có tăng thân thì cũng khó làm được gì nhiều.
Xây dựng Tăng Thân
Ngày xưa, tăng thân của Bụt thỉnh thoảng cũng có vấn đề lớn, đôi khi chia rẽ, có khi chia làm hai. Nhưng mà biết làm sao hơn, con người nó là như vậy. Tại Kosambi, tăng thân chia làm đôi, Bụt can thiệp vào cũng không giải quyết được, Bụt phải bỏ đi. Ở thành Vương Xá, Đề Bà Đạt Đa tổ chức giáo hội mới. Nhưng những khó khăn đó giáo đoàn đã vượt qua được.
Tăng thân của Bụt có uy tín nhờ phương pháp hành trì giáo lý của Bụt đã gây được niềm tin nơi quần chúng. Vua Ba Tư Nặc, vua nước Kosala, có một lần chắp tay lạy mà thưa với Bụt rằng: "Bạch Đức Thế Tôn, nhìn cách các vị khất sĩ đi qua, đi lại, ngồi xuống, đứng lên, thực tập, con có đức tin nơi Thế Tôn". Câu nói này đã được ghi lại trong kinh.
Nhìn một tăng thân, ta có thể thấy khả năng của một vị đạo sư của tăng thân ấy. Cho nên một trong những điều mà chúng ta phải học trong thời gian thụ huấn là môn học xây dựng tăng thân hay dựng chúng (community building, sangha building).
Một vị đạo sư mà không có tăng thân thì cũng như một nghệ sĩ không có tư liệu, một nhạc sĩ không có đàn, một chiến sĩ không có súng. Và vì vậy tăng thân rất quan trọng. Nếu trong tăng thân mà có được một ít yếu tố của sự hòa hợp, của hạnh phúc thì một người mới tới với tăng thân tuy chưa tu mà đã bắt đầu hưởng lợi rồi. Xây dựng tăng thân là một công trình quan trọng nhất của sự tu tập.
Ngày xưa, bây giờ cũng vậy, có nhiều người chán các Thầy, giận các Thầy rồi nói rằng: "Tôi chỉ quy y nhị bảo thôi, là Phật Bảo và Pháp Bảo, Tăng Bảo tôi không thích". Có nhiều người nói tôi chỉ quy y Thánh Tăng thôi, tức là Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Văn Thù, Phổ Hiền thôi, còn mấy thầy mấy sư cô đang sống ở đây chưa phải là Thánh Tăng. Nói như vậy không đúng. Tại vì cái tăng thân mà ta có thể hưởng được là tăng thân này, tức là phàm tăng. Giá trị của tăng thân là do ta xây dựng nên chứ không phải tự nhiên mà có. Tăng thân là một đoàn thể trong đó mọi người đều có ý chí tu học. Còn tu học thành hay không thành, thành công tới mức nào là còn do nghệ thuật tu học nữa chứ không phải có thiện chí mà được. Có thiện chí chưa đủ. Cũng như muốn thương chưa chắc đã thương được.
Tăng thân không cần phải hoàn hảo. Chỉ cần phàm tăng thôi chứ chưa cần tới thánh tăng mà đã hưởng được nhiều lợi lạc rồi. Nếu mỗi cá nhân của tăng thân có ý thức cần nương tựa vào tăng thân để tu học, thì phải biết rằng tăng thân đó phải do tự mình xây dựng cho tốt đẹp. Nếu tăng thân chưa tốt đẹp như mình muốn thì phải làm cho tốt đẹp. Phương pháp làm cho tăng thân tốt đẹp là trước hết phải làm cho mình tốt đẹp, vì mình là một phần tử của tăng thân. Phần tử của tăng thân trong tầm tay mình nhất, gần mình nhất chính là mình. Cho nên, mỉm một nụ cười, thở một hơi thở, đó là làm cho cả tăng thân. Đi thiền hành cho đàng hoàng là phục vụ tăng thân, chứ đừng cho rằng phải dạy cho người này, dạy cho người kia mới là phục vụ tăng thân.
Vậy thì, xây dựng tăng thân trước hết là phải mỉm cười, là phải thiền hành, là phải thực tập chỉ, là phải an trú trong hiện tại. Căn cứ trên cơ bản đó mới giúp được một sư anh, một sư chị, một sư em. Nếu không căn cứ trên cơ bản đó thì có xây dựng cách mấy cũng không đi tới đâu cả.
Một tăng thân mà có hạnh phúc quan trọng vô cùng. Nó nuôi dưỡng và làm cho chúng ta thêm vững chãi. Tại vì cá nhân có khi lên, khi xuống nhưng nguyên một tăng thân thì không đến nỗi như vậy. Khi có một người này ngã xuống thì luôn luôn có những người kia nâng dậy. Chị ngã em nâng. Đó là sự quan trọng của tăng thân.
Cho nên con về nương tựa Tăng không phải là một vấn đề tín ngưỡng, không phải là vấn đề đức tin. Chúng ta đọc Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng như là một sự tỏ lộ niềm tin, nhưng Quy Y Tăng không phải là vấn đề đức tin. Đó là một vấn đề thực tập. Quy Y Phật cũng vậy. Đó là một vấn đề thực tập. Quy Y Phật tức là luôn luôn sống trong chánh niệm. Chánh niệm tức là Phật soi sáng cho mình.
Một thiền sinh giỏi, có tương lai là một thiền sinh biết xây dựng tăng thân. Đừng đợi khi tốt nghiệp rồi mới ra xây dựng tăng thân, lúc đó sẽ không thành công đâu. Phải sống cho hòa hợp, hạnh phúc, phải xây dựng tăng thân ngay trong giây phút hiện tại. Con về nương tựa Tăng là vấn đề thực tập, không phải là vấn đề tín ngưỡng.

Bài tụng 49

Vượt thoát sinh tử

Không sinh cũng không diệt
Sinh tử là niết Bàn
Sở đắc là vô đắc
Không nắm cũng không buông.

Nếu bài tụng 48 nói về nhân, tức là chính sự tu học thì bài tụng này nói về kết quả của sự tu học, về sở đắc của sự tu học. Cũng có thể nói rằng bài tụng 48 nói về tích môn và bài tụng này nói về bản môn.
Không sinh cũng không diệt tức là Niết Bàn. Niết bàn là sự chấm dứt, là sự vượt thoát sinh tử. Sự chấm dứt đó không có nghĩa của một sự loại trừ sinh tử. Tại vì sinh tử là niết bàn, là Bản Môn. Tuy nói rằng có đắc, nhưng kỳ thực mình có đắc gì đâu? Nói rằng sóng nắm được nước, nhưng mà sóng đâu cần nắm nước nữa. Tại vì sóng là nước rồi.
Chúng ta nói một cách buồn cười là sóng tiếp xúc với nước. Nhưng mà sóng là nước rồi, đâu cần phải tiếp xúc nữa. Cũng như sống trong thế giới của sinh-diệt, của có-không, của còn-mất, của đi-tới mà nói tiếp xúc được với Niết Bàn, thì cũng buồn cười như vậy. Niết bàn là chân như, là tự tánh của chúng ta. "We have been in the Nirvana for a long time, already. Chúng ta có mặt trong niết bàn đã từ lâu rồi". Cũng như sóng là nước từ vạn kiếp rồi. Thành ra có cái gì để đắc đâu?
Chúng ta hãy nhớ lại Tam Pháp Ấn, chìa khóa mở cửa 50 Bài tụng Duy Biểu. Chúng ta hãy nhớ lại hình ảnh đồng bạc cắc. Đồng bạc cắc có mặt sấp, mặt ngửa và chất kim loại làm ra nó. Chúng ta sờ vào mặt sấp của đồng bạc cắc tức là đồng thời ta sờ vào chất kim loại của đồng bạc cắc. Chúng ta sờ vào mặt ngửa của đồng bạc cắc, tức là đồng thời ta sờ vào chất kim loại của đồng bạc cắc. Thế giới của hiện tượng là thế giới của bản thể. "Thuyền hiện tượng quay về bản thể" (thơ Nhất Hạnh), nhưng kỳ thực là khỏi quay về bản thể.
Vì sống trong ý niệm về thường, về ngã cho nên từ đó chúng ta có những ý niệm về có, về không, về một, về nhiều, về tới, về đi, về sinh, về diệt. Tám ý niệm có, không, một, nhiều, tới, đi, sinh, diệt đó là do hai ý niệm thường và ngã mà ra. Cho nên, Tam Pháp Ấn khai thị cho chúng ta về niết bàn. Vô thường và vô ngã là đứng về phương diện hiện tượng, tức là sóng, mà nói. Chúng ta xét tính chất vô thường và vô ngã để thấy bản chất của vạn sự, vạn vật cũng như chúng ta nhìn vào sóng để thấy cái bản chất của nước. Và đó là phương thức để chúng ta vượt khỏi những ý niệm có-không, một-nhiều, tới-đi, sinh-diệt.
Pháp ấn thứ ba là niết bàn, tức là chấm dứt tất cả mọi khái niệm, trong đó có khái niệm về vô thường và vô ngã. Tại vì khái niệm về vô thường và vô ngã được đưa ra để giúp chúng ta vượt thoát khái niệm về thường và ngã. Nhưng khái niệm về vô thường và vô ngã vẫn là khái niệm. Niết bàn vượt thoát khái niệm thường mà cũng vượt thoát khái niệm vô thường, vượt thoát khái niệm ngã mà cũng vượt thoát khái niệm vô ngã.
Nhưng nếu không có vô thường và vô ngã thì chúng ta có tiếp xúc với niết bàn được không? Đứng về phương diện Ba Tự Tánh chúng ta nói như thế này: Thực tại trong cái nhìn của thường, của ngã là thực tại biến kế chấp. Thực tại trong cái nhìn của vô thường, vô ngã là thực tại y tha khởi. Y tha khởi tháo gỡ chúng ta khỏi biến kế chấp và giúp ta tiếp xúc được với niết bàn vốn là viên thành thật. Khi chạm vào vô thường, thật sự chạm vào vô thường chứ không phải chạm vào khái niệm vô thường, tức là chạm vào niết bàn. Chạm vào sóng tức là chạm vào nước. Cho nên nói rằng có đắc nhưng kỳ thực có đắc gì đâu! Không có cái gì phải nắm hết, không có cái gì phải buông hết. Có gì mà tôi phải nắm lấy đâu? Có gì mà tôi phải bỏ ra đâu? Đó gọi là vô đắc, vô thủ, vô xả. Nắm là thủ. Buông là xả. Khi mà còn nắm lấy một cái, buông một cái, tức là còn nhị nguyên (dualism).

Bài tụng 50

Vô úy
Lướt trên sóng sinh tử
Thuyền từ dạo biển mê,
Nụ cười vô úy nở
Phiền não tức Bồ đề.

Các vị Bồ Tát ban đầu cũng trôi lăn trong biển sinh tử, thường ngã, nhưng nhờ thực tập vô thường quán, vô ngã quán cho nên từ thế giới của hiện tượng mà tiếp xúc được với thế giới của bản thể, của niết bàn. Và khi tiếp xúc được với niết bàn thì sẽ đạt được tự do, vượt thoát được sự sợ hãi do những ý niệm có-không, một-nhiều, tới-đi, sinh-diệt gây ra, sẽ lướt trên sóng sinh tử mà đi. Lướt trên sóng sinh tử nghĩa là trở về với thế giới của sóng mà vẫn an trú trong nước.
Thuyền từ dạo biển mê nghĩa là các vị Bồ Tát sau khi chứng ngộ rồi, sau khi hết sợ rồi, hết chìm đắm rồi thì trở về với thế giới sinh tử mà không thấy có sinh tử. "Thuyền từ dạo biển mê" mô tả những vị Bồ Tát đang hành đạo trong cuộc đời này như Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Diệu Âm mà chúng ta thấy trong kinh Pháp Hoa.
Nụ cười vô úy nở, trong thế giới đầy đau thương, đầy sầu não mà vẫn nở nụ cười vô úy vì đã tiếp xúc được với Niết Bàn. Không còn thấy sinh. Không còn thấy tử.
Phiền não tức Bồ đề, thấy tính bất nhị giữa phiền não và Bồ đề. Khi đã thấy rồi thì không còn sợ hãi. Khi không còn sợ hãi thì bơi lội một cách an nhiên trong thế giới của sinh tử mà không còn thấy có sinh tử.
http://thuvienhoasen.org/p24a19499/chuong-06-con-duong-tu-tap