87
HT.
Thích Thanh Từ
Phật là
lời nói gọn, nói đủ là Phật-đà (Buddha) dịch âm tiếng Phạn, dịch nghĩa là Người
Giác Ngộ. Phàm nói Phật là chỉ cho đức
Thích-ca Mâu-ni (Sakyamuni). Trước đây hơn hai mươi lăm thế kỷ, ở thành Ca-tỳ-la-vệ
(Kapilavastu) phía Bắc miền Trung Ấn Độ,
trong cung vua Tịnh Phạn (Suddhodana) đã sanh một vị Thái tử tên Tất-đạt-đa
(Siddhartha). Lớn lên, có dịp Thái tử đi
dạo bốn cửa thành, chứng kiến sự sanh già bệnh chết của kiếp người, khiến Ngài
xót xa đau đớn.
Sau đó,
Ngài quyết định từ bỏ một cuộc đời sang cả trong hoàng cung, dấn thân vào rừng núi để tìm ra con đường giải
thoát sanh tử. Trải qua mười một năm trời học đạo và khổ tu, bốn mươi chín ngày
tọa thiền dưới cội bồ-đề, Ngài bỗng nhiên hoàn toàn giác ngộ, thành Phật hiệu
là Thích-ca Mâu-ni. Sau khi giác ngộ, Ngài thấy rõ manh mối lôi cuốn con người
trôi lăn trong dòng sanh tử và biết tột cùng con đường giải thoát sanh tử. Nói
một cách khác, Ngài biết rõ nguyên nhân và thành quả của sanh tử, biết rõ
nguyên nhân và thành quả của giải thoát sanh tử, đồng thời Ngài cũng biết rõ sự
sanh thành và hoại diệt của mọi sự vật. Cũng gọi sự giác ngộ ấy là “Trí biết tất
cả loại” (Nhất thiết chủng trí).
Chính
trí tuệ này, Ngài đã được viên mãn và cũng đem nó giáo hóa chúng sanh khiến tất
cả đều được viên mãn, nên gọi là Phật.
Phật chỉ
nguyên nhân đưa con người vào đường sanh tử và manh mối giải thoát sanh tử một
cách rõ ràng, là Mười hai nhân duyên: Vô minh duyên Hành... cho đến Sanh duyên
Lão Tử. Đây là vòng tròn nối tiếp triền miên trong sanh tử. Muốn giải thoát
sanh tử, tức là: vô minh diệt thì hành diệt... cho đến sanh diệt thì lão tử diệt.
Thế là vòng sanh tử rã rời. Nhìn vào mười hai nhân duyên, chúng ta thấy vô minh
là chủ động cuộc sanh tử, tiêu diệt vô minh là giải thoát sanh tử. Thế thì, vô
minh là đầu mối sanh tử, tiêu diệt vô minh là đầu mối giải thoát sanh tử. Đầu mối
còn thì chi mạt ngọn ngành tiếp nối sanh trưởng, đầu mối diệt thì chi mạt ngọn
ngành theo đó hết sạch.
Vô minh
là gì mà có khả năng mãnh liệt như thế? Vô minh là không sáng, là mê lầm. Ngay
nơi cuộc sống này, mà không biết cái nào là giả dối, không nhận ra cái nào là
chân thật, là vô minh. Giả không biết, thật không hay, quả tang là kẻ mê lầm. Đức
Phật biết rõ những cái nào là giả dối, nhận chân cái chân thật, nên gọi là Người
Giác Ngộ. Được giác ngộ thì không còn vô
minh, nên giải thoát sanh tử, đồng thời cũng có đầy đủ mọi diệu dụng mà người đời
không thể biết hết, nên nói “giải thoát bất tư nghì”. Thế là, Ngài đã đạt được
bản hoài trước khi phát nguyện đi tu. Cũng chính là cái thành quả viên mãn của
bao nhiêu năm Ngài khổ công đeo đuổi.
Sau khi
đạt được sở nguyện, Ngài đem pháp của mình đã được chỉ dạy lại cho mọi người, để
cùng giác ngộ như Ngài. Trong thời gian ấy, Ngài đã giới thiệu bao nhiêu bản
nguyện công hạnh của chư Phật khắp mười phương cho đồ đệ nghe. Do đó, chúng ta
được biết thêm nhiều danh hiệu chư Phật khác. Đức Phật là một con người thật,
có cha có mẹ có lịch sử rõ ràng và sự giác ngộ của Ngài cũng hoàn toàn chân thật.
Chúng ta có thể kiểm chứng sự giác ngộ ấy qua Tam Tạng giáo điển của Ngài còn
lưu lại. Đó là vấn đề Phật pháp.