Sau khi đã có những điều kiện tối
thiểu cho cuộc sống thường nhật (ăn đủ no, mặc đủ ấm) thì hạnh phúc của mỗi người
chủ yếu được quyết định bởi đời sống tinh thần và tâm linh. Minh triết Phương
Đông chứa đựng đầy đủ các yếu tố cơ bản đảm bảo cho con người có khả năng tự giải
thoát để tinh thần và tâm linh được khai minh trong tĩnh lặng.
Những yếu tố cơ bản ấy có thể
tóm tắt trong các triết lý Vô Thường của Phật giáo, Vô Ý của Khổng giáo và Vô
Vi của Lão giáo.
Phật giáo chủ trương Vô thường
(xem chẳng hạn Trịnh Xuân Thuận, Khoa học và Phật giáo: trước ngã tư đường,
2009). Bất kể những gì có vẻ hiện hữu, từ Vũ trụ bao la cho đến các phần tử nhỏ
nhất của vật chất đều biến đổi không ngừng trong từng sát-na (đơn vị nhỏ nhất của
thời gian) và trong suốt lịch sử tồn tại của nó từ khi xuất hiện, đến trưởng
thành, suy yếu, rồi tiêu vong. Đó là Vô Thường. Đời sống tinh thần - tâm lý của
con người cũng luôn luôn thay đổi không ngừng theo lẽ Vô Thường ấy. Vì Vô Thường
mà vạn vật trong Vũ trụ luôn vận động tương hỗ; mỗi sự vật đều là một bộ phận của
toàn thể, chỉ có thể được xác định và hiện hữu trong mối liên hệ cùng nhau,
không có gì hiện hữu một cách tự thân; và “một có trong toàn thể, toàn thể có
trong một. Đó là ý niệm Duyên Khởi, nguồn gốc của luật Nhân quả. Một khi mọi sự
vật đều là Duyên Khởi thì cũng sẽ không có hiện hữu nào độc lập hay thường hằng,
đó chính là Tánh Không, ý niệm quan trọng thứ ba của Phật giáo, sau Vô Thường
và Duyên Khởi. “Không” ở đây không phải là “hư không” mà chỉ là không có hiện hữu
tự thân. Bởi vậy Tánh Không không phải chỉ là bản tính của thế giới hiện tượng
(“Sắc”), mà còn hàm chứa tiềm năng biểu hiện muôn hình vạn trạng của thế giới
chân tâm (“Không”) Thế nên Bát nhã Tâm linh nói: “Sắc chính là Không, Không
chính là Sắc”.
Tích tâm để ngộ được (tức là ý
thức được điều ta biết được từ nội tâm) những điều ấy, ta sẽ bình thản trước mọi
sự đổi thay; ý thức được sự mong manh, bất trắc và phù du của kiếp người để duy
trì lòng vị tha và trắc ẩn mà yêu thương con người, yêu thêm cuộc đời. Như vậy
chẳng hạnh phúc lắm sao?
Ngày xưa, Thiền sư Lý Trường
(1052-1096, được Lý Nhân Tông coi như quốc sư và đặt hiệu là Mãn Giác) đã thấm
nhuần đạo lý Vô Thường để trải tấm lòng an nhiên, tự tại trong vần thơ thiền định:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đảo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Xuân ruổi, trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt, việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một nhành
mai
(Ngô Tất Tố dịch)
Lão giáo chủ trương Vô Vi (xem
chẳng hạn Nguyễn Hiến Lê, Đạo Đức Kinh, Nxb Văn hóa 1998). Vô ở đây không phải
là không có gì. Vô là vô sắc, vô thanh, vô hình đối với cảm quan của ta, giống
như Đạo của Lão Tử. Lão Tử coi Đạo là bản nguyên của vũ trụ, sinh ra vạn vật,
nhưng thâm viễn và huyền diệu như vừa “Có” lại vừa "Không". Vô
(Không) sinh ra Hữu (Có), rồi Hữu lại về Vô, chúng không đối kháng, mà đối hợp
với nhau. Và vì vậy Đạo với Tự nhiên là một. Vô Vi của Lão giáo không phải là
không làm gì mà là không làm gì trái với Tự nhiên. Sống thuận với Tự nhiên,
không bị gò ép bởi các phép tắc, ý niệm trái với các quy luật của Tự nhiên, thì
cuộc sống sẽ yên bình hoan lạc.
Từ thế kỷ 18 đến nay, con người
đã ngộ nhận sức mạnh vạn năng của khoa học và công nghệ, tin một cách khờ dại rằng
có thể chinh phục được Tự nhiên trong khi không ngừng bóc lột và tàn phá thiên
nhiên một cách tàn nhẫn. Và bây giờ đang phải trả giá: Ngôi nhà chung thiêng
liêng của loài người đang có nguy cơ sụp đổ vì hiệu ứng nhà kính gây nên bởi
khí thải công nghiệp và nạn phá rừng ngày càng trầm trọng hơn. Trái đất đang
nóng dần lên, nước biển đang dâng cao và môi trường sinh thái bị hủy hoại. Đó
là cái “quả” rất đắng từ cái “nhân” không tôn trọng Tự nhiên không thân thiện
và hòa đồng với Thiên nhiên.
Giá Phương Tây, cái nôi của
khúc học và công nghệ hiện đại, thấu hiểu được triết lý Vô Vi thì xã hội loài
người đã không phải đối mặt với các nguy cơ kể trên. Vô Vi sẽ dẫn dắt các hành
động can thiệp và chế ngự thiên nhiên một cách khôn ngoan hơn, thuận quy luật Tự
nhiên hơn; và cuộc sống của con người sẽ an lành hơn.
Ở nước ta, ngay từ thời dựng nước,
triết lý Vô Vi của Lão Tử đã được truyền bá. Pháp sư Đỗ Nhu Pháp (915 - 990) đã
khuyên vua Lê Đại Hành rằng:
Quốc lộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô Vi cư điện các
Xứ xứ tức binh đao
(Ngôi nước như dây leo quấn
quýt ở góc trời Nam (mở ra) cảnh thái bình
(Dùng đường lối) Vô Vi để trị
nước
Thì (yên dân), khắp mọi nơi
không còn bạo lực)
Giá như từ độ ấy Vô Vi luôn ngự
trị trong các triều đại thì dân tộc ta đã có thể có một tiến trình lịch sử khác
rồi chăng?
Khổng giáo chủ trương Vô ý (xem
chẳng hạn Francois Jullien, Minh triết Phương Đông và triết học Phương Tây, Nxb
Đà Năng, 2003). Trong Luận ngữ có câu: “Tử tuyệt tứ: vô ý, vô tất, vô cố, vô
ngã” (Khổng Tử kiên định bốn điều: Vô ý, Vô Tất, Vô Cố, Vô Ngã).
Vô Ý không có nghĩa là không có
ý kiến gì mà có nghĩa là “không có ý kiến nào được dành đặc quyền, được tuyệt đối
hóa, khiến ta không nhìn thấy những điều hợp lý, khả thủ của những ý kiến khác,
kể cả những ý kiến đối lập”.
Nếu đã Vô ý thì mặc nhiên sẽ dẫn
đến Vô Tất (không định trước, ắt phải thế này, ắt phải thế kia), Vô Cố (không cố
chấp một quan điểm nào, một lập trường nào) và Vô Ngã (không có cái tôi đặc biệt,
vị kỷ). Người quân tử phải có tư tưởng , có lập trường và chính kiến riêng của
mình, nhưng luôn sẵn sàng đối thoại một cách bình đẳng, không thiên kiến với lập
trường khác, tư tưởng khác và hình kiến khác; không là nô lệ mù quáng của bất kể
chủ thuyết nào. Khổng Tử nói: “Bực quân tử làm việc cho đời, không có việc gì
mà cố ý làm, không có việc gì mà cố ý bỏ, hễ hạp nghĩa thì làm”. Hạp nghĩa ở
đây là thích hợp với thời và thế. Đó là Đức thời trung của Khổng Tử. Đó cũng là
triết lý Trung Dung của Khổng giáo: “Đứng ở giữa (chứ không phải khư khư bám lấy
trung điểm để cân bằng) và tự dành cho mình quyền xem xét, lựa chọn mọi khả
năng, kể cả quyền đi tới cùng phía thái cực này hay phía thái cực kia”.
Quán tưởng được Vô Ý thì luôn
luôn giữ được lòng mình thanh thản. Hãy lắng nghe Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803),
danh sĩ thời Hậu Lê - Tây Sơn trong bài phú Thiên quân thái nhiên (Lòng luôn
thanh thản)
Linh đài cánh tĩnh, hư thất
linh lung
Vô ý Tất, Cố, Ngã, tri cương
nhu hiển thông
Dụng tắc hành, xã tắc tàng
Xuất xử, ngữ, mặc, giai thông hồ
thời nghĩa
Ngôn chi tín, hành chi quả
Tử, sinh, kinh, cụ bất nhập hồ
hung trung
(Đức thiên trong lắng, nhà trắng
sáng trưng
Không tư lợi, chấp nê, vị kỷ
Biết cứng mềm, hiểu lẽ liên
thông
Đời dùng thì làm, đời bỏ thì về
ở ẩn
Ra hay ẩn, nói hay im, đều bởi
hiểu thông thời vận
Lời nói thì giữ tín, việc làm
thì quyết xong
Sống với chết, lo với sợ, chút
không vướng bận trong lòng.
(Ngô Linh Ngọc dịch)
Một chủ thuyết phát triển dựa
trên nền tảng tư tưởng của Minh triết Phương Đông có thể (chỉ mới “có thể”
thôi) là thích hợp cho thời đại mà triết học Phương Tây đang tỏ ra bế tắc.
Nhưng Vô Ý, Vô Vi, Vô Thường chắc chắn (rất chắc chắn) sẽ giúp cho con người lấy
lại cảm giác bình yên và ứng xử thông minh trong cái Thế giới đầy bất trắc này,
để vui sống hàng ngày và tận hưởng hạnh phúc kỳ diệu mà Tự nhiên đã ban tặng
cho ta, một lần cho mãi mãi: được là một thực thể có trí tuệ trong Vũ trụ Vô
Thường.
Chu Hảo
http://daitangkinhvietnam.org/nghien-cuu-phat-hoc/triet-hoc-phat-giao/3147.html