Borobudur
là một bảo tháp hùng vĩ và lớn nhất của PG thế giới và được xem là một trong 70
kỳ quan của thế giới được Tổ chức Unesco ghi nhận là một Thánh tích quan trọng
và đã tài trợ để trùng tu vào năm 1973.
Bảo
tháp hiện nay tọa lạc ở quận Borobudur, miền Nam Magelang, Trung tâm Java,
Indonesia. Quần thể kiến trúc độc đáo này được xây dựng trên một ngọn đồi
27 mét (rộng 2 cây số rưỡi), với chiều cao của tháp 32 mét, gồm có 9 tầng,
1.600.000 phiến đá chạm trổ, 504 tượng Phật, 72 tháp hình quả chuông và 1500
tháp hình tứ giác. Bảo tháp được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 7 và 8 Tây lịch.
Theo các nhà khảo cổ thì công trình vĩ đại này phải mất 100 năm để xây dựng
hoàn thành.
Ý nghĩa
và tên gọi của Bảo Tháp Borobudur
Ở Ấn Độ
gọi Tháp là Stùpa hay Thùpa;Trung Hoa gọi là Phù Đồ hay Phật Đồ; Tích Lan
gọi là Dagola, Miến Điện gọi là Pagoda, Tây Tạng gọi là Chorten hay Tumulus, tiếng
Anh gọi là Tower... nghĩa là chỗ cao ráo trang nghiêm, nơi hội tụ công đức,
ngôi lăng mộ lớn, nơi để tôn thờ xá lợi của Phật và các vị A La Hán. Bảo
Tháp đầu tiên được xây dựng tại Ấn Độ ngay sau Phật nhập diệt tại thành Câu Thi
Na và Ma Kiệt Đà và về sau nó trở thành một biểu tượng quan trọng của Phật
giáo.
Danh hiệu
Borobudur (Bà La Phù Đồ) phát xuất từ nguyên ngữ Sanskrit, có nghĩa là
"Ngôi chùa ở trên đồi" (Buddhist Monastery on the hill), và nhiều
nghĩa khác nhau là : "Borobudur là Borobudur", nghĩa là Borobudur chỉ
là một cái độc nhất vô nhị theo kiểu cách của chính nó, không giải thích, không
bàn cãi được. Theo họa sĩ Nieuwenkamp thì cho rằng "Borobudur như là một
đóa sen lớn rực rỡ nổi lên giữa hồ" (a big lotus flower bud ready to
bloom was floating on a lake). Ý kiến này được nhà khảo cổ N. Rangkuti (1987) đồng
ý rằng hình ảnh của Borobudur trông nổi bật so với tất cả những phong cảnh bao
quanh nó. Rồi từ những nghiên cứ về địa lý, các chuyên gia chứng minh rằng
Borobudur vào thời điểm ấy được thiết kế ở giữa một cái hồ rất lớn, tất cả những
làng mạc xung quanh Borobudur đều ở độ cao 235m so với mặt biển. Mực nước này
hiện nay vẫn giống nhau so với mực nước của một cái hồ cạnh Borobudur.
Rồi dựa
trên bản khắc năm 842 TL, nhà khảo cổ Casparis cho rằng "Borobudur là một
nơi để cầu nguyện" (a place for praying). Borobudur là "Vô lượng Phật"
(Countless Buddhas), là "Núi công đức của các Bồ tát" (A mountain of
the virtues of the Bodhisattava). Đối với người Indonesia thì định nghĩa đơn giản
hơn, Borobudur có nghĩa là " ngôi chùa ở Bobur " ( Monastery at
Budur), vì Budur là địa danh của Java (Indonesia cũ) và Boro được biến thể từ
chữ Bara và Byhara, phát xuất từ chữ "Vihara" (chùa), một từ của
Sanskrit.
Kiến trúc của Borobudur
Borobudur
quay mặt về hướng đông, có 4 cửa và 9 tầng; tầng thứ nhất được thiết tạo
những tháp hình tứ giác với những hình tượng Phật và Bồ tát được chạm trổ lên
đó, đặc biệt là ghi lại toàn bộ lịch sử của Đức Phật Thích Ca Mưu Ni, vị khai
sáng đạo Phật, với những quan cảnh từ đản sinh, xuất gia, thành đạo, giáo hóa
và Niết bàn. Tầng thứ hai, chạm trổ những chuyện tiền thân của Phật Thích Ca được
mô tả trong Jataka. Tầng thứ ba, bốn và năm là trình bày hình ảnh của các vị Bồ
tát như Quan Âm, Địa Tạng, đặc biệt là chuyện Sudha gặp Bồ tát Di Lặc
(Maitreya) được diễn tả trong Kinh Hoa Nghiêm. Và bốn tầng tháp còn lại phía
trên là phần tháp hình quả chuông. Trong mỗi tháp đều có tôn trí hình tượng Phật.
Toàn bộ 1.600.000 phiến đá lớn nhỏ của Borobudur được điêu khắc và chạm trổ một
cách tinh tế, sắc sảo và đẹp đẽ đã tạo nên một vẻ đẹp hùng tráng cho Borobudur.
Về mặt
tổng thể, Borobudur được nhìn từ trên cao xuống trông giống như một đồ hình Mandala,
biểu trưng cho cấu trúc của vũ trụ theo quan điểm của PG, trời tròn đất
vuông (xin xem hình của Borobudur).
Thời
gian xây dựng Tháp Borobudur
Borobudur
được xây dựng từ năm 750 đến 850 TL trong khoảng thời gian của hai triều đại
Sailendra và Sanjaya.
Triều
vua Sailendra trị vì một phần lớn ở Sumatra và tầm ảnh hưởng của hoàng gia này
kéo dài đến miền Đông Ấn Độ. Các vị vua của triều đại này đều là tín đồ thuần
thành của PG Đại Thừa, một tông phái PG xuất phát từ bắc Ấn Độ, kinh điển viết
bằng ngôn ngữ Sanskrit. Triều đại này đã phát tâm kiến tạo công trình vĩ đại
này vào năm 750 TL như để dánh dấu sự vững mạnh của PG tại Indonesia vào thời bấy
giờ.
Thời
gian khám phá và trùng tu tháp Borobudur
Bảo
tháp Borobudur được khám phá vào năm 1814 do công của Toàn quyền Anh quốc tại
Indonesia, ông Thomas Stanford Raffles, trong một tình trạng bị đổ nát và chôn
vùi dưới một vùng cây cối um tùm. Người ta tin rằng bảo tháp đã bị mất tích sau
cơn núi lửa xảy ra tại vùng này vào thế kỷ thứ 14. Sau đó, toàn quyền Raffles
đã cho dân làng khai quật và mọi ngưòi đều sửng sốt trước “một ngôi vườn tháp”
của Java vĩ đại như thế mà bấy lâu họ không hề biết.
Đến năm
1900, chính quyền Hòa Lan tiếp thu Indonesia và họ đã thành lập một Ủy
ban bảo trì Borobudur, một dự án trùng tu lại Borobudur được thực hiện ngay lập
tức vào năm 1907 đến 1911 bởi tiến sĩ Th. Van Erg, một kỹ sư quân sự Hòa Lan,
công trình trùng tu này đã bị ngưng lại vì những biến động của thế chiến thứ nhất
(1913-1917). Trong hai thập niên 1950 và 1960, chính quyền Indonesia có nhiều
chương trình trùng tu nho nhỏ. Đến năm 1967, giáo sư Soekmono, chủ tịch Viện Khảo
cổ Indonesia, kêu gọi tổ chức Unessco cứu vãn Borobudur và tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc này đã ghi nhận Borobudur là một di tích
lịch sử quan trọng của thế giới và đã tài trợ để trùng tu lại thánh tích này từ
năm 1973 đến 1983.
Công việc
đại trùng tu này kéo dài ròng rả 10 năm, với 700 công nhân làm việc toàn thời,
sáu ngày mỗi tuần, để khai quật, cạo rửa, tô đắp và sắp xếp lại phiến đá bị
đánh cắp... đặc biệt hãng máy tính IBM đã tài trợ cho ban trùng tu một máy điện
toán để giúp tính toán đo đạt và thay thế những phiến đá chạm trổ bị đánh cắp
vào những chỗ trống sao cho cân xứng.
Cuối
cùng công việc trùng tu đã hoàn mãn với tổng chi phí là 25 triệu đô la, tăng gấp
ba lần so với dự tính ban đầu. Trong ngày khánh tạ Borobudur, 23 tháng 2 năm
1983, Tổng thống Indonesia, ông Suharto đã phát biểu rằng : "chính quyền
Indonesia luôn quan tâm đến những di sản của lịch sử và có những kế hoạch để bảo
trì. Từ nay Borobudur đã có thể chịu đựng với thời gian một ngàn năm nữa...."
Lời
kết
Nhiều
nhà khảo cổ học và sử học tin rằng ngôi bảo tháp vĩ đại này được xây dựng bởi
vua Sailendras như để biểu dương sức mạnh chính trị của mình. Cũng có ý kiến
cho rằng Borobudur chỉ là sản phẩm của những vị vua Phật Giáo chuyên chế, tự nhận
mình là những vị Bồ tát để thực hiện công trình vĩ đại này để vinh danh PG và
cũng để tôn vinh chính mình.
Cho dù
mục đích của người tạo dựng ra nó là gì, Borobudur vẫn là Borobudur như thuở
nào mà người Phật tử Indonesia thường gọi như vậy để nói lên niềm tự hào của mình.
Borobudur
được xem là hòn ngọc của vùng Nam bán cầu, rõ ràng Borobudur đã trở nên nổi tiếng
từ khi tổ chức Unessco biết đến, hằng năm có nhiều chục ngàn người đổ xô về
chiêm bái thánh tích này. Bốn khách sạn lớn được dựng lên ở một thành phố gần
Borobudur để cung ứng cho nhu cầu du lịch nơi vùng này.
Ngày
nay Borobudur nằm giữa một thung lũng được bao quanh bởi những ngọn đồi thấp,
và đặc biệt là nằm ở giữa hai con sông lớn của Indonesia là Progo và Elo.
Borobudur cách 90 km về hướng Đông Nam của tỉnh Semarang và khoảng 42 km hướng
Tây Bắc của thành phố Yogyakarta. Du khách có thể chọn xe Taxi hoặc xe buýt để
viếng thăm Thánh tích nổi tiếng này.
http://www.quangduc.com/Thanhtich/19borobudur.html
Borobudur, Indonesia
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Borobudur - Di sản thế giới UNESCO
Borobudur là một ngôi
đền tháp Phật giáo lớn ở miền trung đảo Java, Indonesia. Tên Borobudur có gốc từ
Vihara Buddha Ur trong tiếng Phạn, có nghĩa là "đền thờ Phật trên ngọn núi".
Ngôi đền tháp này được
xây dựng dưới vương triều Sailendra sùng đạo Phật (thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ
9). Ngôi đền tháp nằm trên đỉnh một quả đồi, giữa vùng đồng bằng phì nhiêu,
phía sau là một dãy núi màu lam, làm nổi bật lên ngôi đền.
Đền tháp Borobudur,
xây dựng trên lưng chừng quả đồi, cách chân đồi 15,5 m, bao gồm 12 tầng to, nhỏ,
vuông, tròn xem kẽ, kế tiếp nhau. Toàn bộ ngôi đền cao 42 m. Chiều dài mỗi mặt ở
chân đền là 123 m. Nhưng nếu đi hết các bậc thang, các hành lang của 12 tầng để
lên đến đỉnh tháp thì phải đến 5 km.
Tầng thứ nhất (từ chân
đồi lên) hình vuông, mỗi cạnh hướng về một phương rõ rệt. Giữa mỗi cạnh có một
khoảng trống rộng 7,38 m, có hai con sư tử bằng đá chầu hai bên, hình thù khá đồ
sộ, chiều cao sư tử đến 1,7 m kể cả bệ, chiều dài 1,26 m, chiều rộng 0,8 m, miệng
chúng khá rộng, lông bờm ở lưng, cổ, ngực dựng lên trông rất dữ tợn, đuôi uốn
cong ngược về phía sau. Song, tám con sư tử ở bốn cạnh có con đã được đẽo gọt,
chạm trổ hoàn chỉnh, có con còn đang dở dang.
Tầng thứ hai cách tầng
thứ nhất 1,52 m, không xây theo dạng hình vuông như ở tầng thứ nhất, mà là hình
đa giác 20 cạnh, gần như bao quanh lấy sườn đồi. Tuy nhiên, vẫn có bốn cạnh lớn
hướng về bốn phương trời, giữa có bốn tầng cấp. Hai bên tầng cấp có hai lan can
uốn cong rất duyên dáng. Cuối lan can là một đầu voi rất to, trong miệng ngoạm
một con sư tử; còn đầu lan can kia, là một đàn sư tử, mõm mở rộng, lưng tựa vào
tường.
Từ tầng thứ ba trở
lên, lại có hình dạng vuông, riêng tầng ba trên cùng có dạng hình tròn. Trên mỗi
tầng có xây dựng nhiều đền đài miếu mạo, cái lớn nhất ở giữa, hai bên là những cái
bé hơn. Trên cùng của đền tháp là mái tròn hình chuông.
Tất cả các bậc thềm từ
tầng một đến tầng chín đều được phủ kín những phù điêu, được chạm trổ rất công
phu, mô tả về cuộc đời của đức Phật Thích Ca Mầu Ni, các bồ tát và các anh hùng
đã giác ngộ Phật pháp, về thiên đàng, về địa ngục...
Riêng ba tầng trên
cùng phẳng phiu, trơn nhẵn có trổ 72 tháp chuông hình mắt cáo. Bên trong có đặt
72 tượng Phật ngồi (tầng một 2,32, tầng hai 2,24 và tầng ba 2,16).
Ngôi đền tháp
Borobudur, sau khi vương triều Phật giáo Syailendra sụp đổ, đã bị bỏ và lãng
quên trong suốt 10 thế kỉ. Vào năm 1814, một phái đoàn các nhà khoa học châu
Âu, do chính quyền thuộc địa Hà Lan ở Indonesia cử đến, mới tiến hành nghiên cứu
và tu bổ lại ngôi đền. Những ngôi đền đã bị đổ nát, hư hỏng quá nhiều. Năm
1970, chính phủ Indonesia phải kêu gọiUNESCO giúp đỡ. Một bản phục chế
Borobudur của UNESCO, bao gồm 600 nhà phục chế có tên tuổi trên thế giới đã tiến
hành trùng tu lại ngôi đền trong suốt 12 năm trời và tiêu tốn mất 50 triệu đôla
Mỹ.
Ngày nay, Borobudur đã
được phục hồi, tuy không được hoàn toàn như trước, nhưng đã thể hiện được dáng
dấp và làm khách tham quan vô cùng ngưỡng mộ, xứng đáng là một trong những kì
quan nổi tiếng của châu Á.