Thế Nào Là Tu Tập Phật Giáo
KHÁI NIỆM VỀ
"TÁM MỐI LO TOAN THẾ TỤC"
TRONG PHẬT GIÁO
Hoang Phong
Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2011
THẾ NÀO LÀ TU TẬP PHẬT GIÁO
"TÁM MỐI LO TOAN THẾ TỤC"
TRONG PHẬT GIÁO
Hoang Phong
Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2011
THẾ NÀO LÀ TU TẬP PHẬT GIÁO
« Bất cứ một hậu quả nào đều nhất thiết phải được phát sinh từ một hành vi, nhưng không thể chỉ đơn giản bằng ước vọng »
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma
« Bịnh tật không thể tự tan biến đi được ! Bịnh nhân dù tụng niệm không ngừng tên của vị thuốc cũng chẳng ích lợi gì, mà cần phải cầm lấy chính bát thuốc để uống »
Adi Shankara - Hiền triết Ấn độ (thế kỷ thứ VIII)
Kinh sách và Đạo Pháp của Phật không phải giúp để góp nhặt sự hiểu biết mà phải dùng để tự biến cải lấy chính ta. Ngón tay tượng trưng cho kinh sách, cho lời giảng của Phật, mặt trăng tượng trưng cho chân lý, tức kinh nghiệm trực tiếp và sự thực hiện Giác ngộ. Nếu ta lầm lẫn ngón tay với mặt trăng, ta sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy mặt trăng. Cũng thế, nếu đến chùa ta chỉ thấy các Thầy nhưng không thấy Phật, hoặc nhận ra Phật mà không nghe thấy những lời giảng của Phật, hoặc chỉ nghe thấy những lời giảng của Phật mà không thấy ngược về những hành vi và tâm ý của chính ta để tự xét đoán và tu tập, cũng giống như ta chỉ thấy ngón tay mà thôi.
Tất cả những gì ta thấy ở chùa, từ chuông mõ cho đến nghi lễ, lắm khi chỉ là hình thức và màu mè. Lời giảng của các vị Thầy có thể chỉ là một vài câu lỏm bỏm trong kinh sách đem ra tán rộng. Nhìn vào kinh sách thì như rừng, có những bộ kinh hàng trăm ngàn trang. Nhìn vào các tông phái và học phái thì không biết đâu để phân biệt. Vậy Đạo Phật thật ra là gì ? Đi tìm Đạo Pháp ở đâu ? Phải tu tập như thế nào ?
Phóng tâm thức ra bên ngoài, chờ đợi từ bên ngoài là hoàn toàn đi ngược với Phật giáo và Đạo Pháp. Đạo Pháp hay Phật giáo là một « khoa học nội tâm », và đối tượng của nền khoa học đó là « tâm thức ». Nổ lực thực hiện trực tiếp những kinh nghiệm do nền khoa học ấy đem đến tức là Tu tập.
Nhưng tu tập cái gì ? Tu tập có nghĩa là khắc phục, biến cải và phát huy tâm thức. Tại sao lại phải khắc phục, biến cải và phát huy tâm thức ? Vì chính tâm thức là nguồn gốc của mọi xúc cảm bấn loạn, của mọi tư duy lệch lạc và méo mó, của mọi thứ khổ đau, nhưng đồng thời tâm thức cũng là cội nguồn của phúc hạnh, của mọi đức tính tích cực và cao cả nhất. Tu tập còn có nghĩa là làm cho tâm thức lắng xuống, quan sát, phân tích, tìm hiểu sự vận hành của tâm thức để ý thức được bản chất thật sự của nó. Cái bản chất ấy thường xuyên bị che lấp bởi vô minh, tức sự hiểu biết sai lạc về thực thể của vạn vật. Tâm thức liên tục bị khống chế bởi lầm lẫn, bởi ảo giác, bởi bản năng thú tính và những xúc cảm đủ loại, giống như nó đang bị một chủ nhân ông điều khiển, và vị chủ nhân ông ấy chẳng qua chính là « cái ngã » hay « cái tôi » mà người ta thường lầm tưởng là một thứ gì trường tồn và bất biến.
Tu tập gồm có ba cấp bậc hay ba khía cạnh khác nhau : tu giới (shila), tu định (samatha) và tu tuệ (prajna) :
a) Tu giới còn gọi là tu hạnh, tức tự nguyện tuân theo một số giới luật trong mục đích đơn giản hoá sự sống của ta, giúpđiều hoà và chủ động những hành vi của ta. Ngoài mục đích căn bả đó, tu giới còn hàm chứa những ý nghĩa cao cả hơn : hướng sự sống vào lý tưởng bất bạo động, tạo ra một cuộc sống hài hoà, an vui, hội nhập với những người chung quanh và tất cả chúng sinh. Tóm lại tu hạnh hay giữ giới là tôn trọng và yêu thương sự sống, gần gũi, hoà đồng và hội nhập với sự sống.
b) Tu định còn gọi là thiền định (samatha) là cách giúp ta sống thật sự và trọn vẹn, sống trực tiếp với những giây phút đang xảy ra với tâm thức và thân xác. Tu định giúp ta loại trừ những chướng ngại cản trở tâm thức, chẳng hạn như : xao lãng, lo âu, đờ đẫn, bồn chồn, lo âu, sợ hãi, giận dữ, hận thù…tóm lại là tránh những xúc cảm bấn loạn, tái lập sự an bình và vắng lặng cho tâm thức. Từ sự an bình và vắng lặng đó, tâm thức sẽ nhận ra bản thể đích thực của chính nó và tự nó sẽ làm gia tăng sức mạnh cảm nhận giúp cho ta suy luận và quán thấy thực tính của vạn vật chung quanh.
c) Phân tích, suy luận đề quán thấy thực thể của của mọi vật và mọi biến cố gọi là tu tuệ. Sự quán thấy tối thượng hay trí tuệ (prajna) là sự hiểu biết vượt lên trên những biểu hiện trong tâm thức, vì những biểu hiện trong tâm thức chỉ là những giác cảm như những giác cảm khác, không phải là sự hiểu biết. Tu tuệ để quán thấy bản chất vô thường của mọi hiện tượng, để nhận thức được thực tính vô ngã của chúng, để hiểu rằng mọi hiện tượng, tức mọi vật thể và biến cố, trong đó có « cái ta », chúng không hàm chứa một sự hiện hữu nội tại hay tự tại nào cả.
Ba phép tu như vừa kể có thể xem như ba cấp bậc khác nhau, chẳng hạn như việc học vấn ở trường : từ tiểu học đến trung học, rồi đại học. Nhưng thật ra, ba cấp bậc tu tập có phần uyển chuyển hơn, do đó ta có thể thực hiện song hành với nhau. Dù sao cũng cần hiểu rằng : nếu không có một thân xác tinh khiết, một ngôn từ ngay thật, một tâm thức lương thiện thì không thể nào tu định được ; nếu không có một tâm thức an bình loại bỏ được mọi xúc cảm bấn loạn thì không thể nào phát huy được trí tuệ.
Sau hết, sự tu tập còn cần đến một sức mạnh để thúc đẩy và nuôi dưỡng. Nguồn sinh lực đem đến sức mạnh cần thiết cho việc tu tập chính là lòng từ bi. Từ bi luôn luôn là động lực cho từng cử chỉ, ngôn từ và tư duy của ta, là sức sống thiêng liêng nhất và cần thiết nhất để liên kết, thống nhất mọi hành vi trong chủ đích đem đến kết quả cho việc tu tập.
Ba phép tu tập trên đây thật ra là một cách trình bày đơn giản hoá và tóm lược của Bát chính đạo (chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tấn, chính niệm, chính định, chính tư duy và chính kiến) và Lục Ba-la-mật (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ). Bản tóm lược dưới đây trình bày sự liên hệ giữa ba phép tu tập với Bát chính đạo và Lục Ba-la-mật :
CÁC PHÉP TU
|
BÁT CHÍNH ĐẠO
|
LỤC BA-LA-MẬT
|
Tu Giới
(shila)
|
Chính ngữ
Chính nghiệp
Chính mệnh
|
Bố thí
Trì giới
Nhẫn nhục
|
Tu Định
(samadhi)
|
Chính tinh tấn
Chính niệm
Chính định
|
Tinh tấn
Thiền định
|
Tu tuệ
(prajna)
Chính tư duy
|
Chính kiến
|
Trí tuệ
|
I. TU GIỚI (SHILA)
Giữ giới là cách điều hoà cuộc sống, tiết chế một số hành vi trên thân xác, kiểm soát ngôn từ và chủ động tư duy, làm phát lộ một phong thái an bình và thư giản. Kẻ khác khi nhìn vào một người tu giới sẽ thấy ngay cái phong cách thư thái, thân thiện của người này. Giữ giới không phải là tìm cách đè nén xung năng, kềm hãm những thúc đẩy bản năng liên hệ đến thân xác và tâm thần, nhưng chính là phải tự đặt mình vào những xúc cảm tích cực, chẳng hạn như yêu thương, chăm lo đến kẻ khác, không làm thiệt hại đến bất cứ một chúng sinh nào.
Người xuất gia phải chọn một lối sống kỷ cương : độc thân, không lưu lại lâu dài ở một nơi nào cả, chọn sự đơn sơ và đạm bạc. Ngoài những khuôn phép đó còn có hàng trăm giới khác được ghi trong kinh sách mà người xuất gia phải noi theo, giới luật không phải để trói buộc họ nhưng để giúp họ tự giải thoát khỏi mọi ràng buộc của cuộc sống vướng mắc và bon chen của thế tục và nhất là tránh cho họ nhựng bấn loạn trong tâm thức. Về phần người thế tục, ít nhất phải giữ năm giới căn bản : không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, dùng những chất độc hại làm cho say sưa và nghiện ngập, đồng thời phải cố gắng giữ thêm các giới khác nữa.
Giữ giới là một sự tự nguyện, một hành vi tự nhiên, nhẽ nhàng và êm ả, nhưng đồng thời giữ giới cũng là một quyết tâm, đòi hỏi nhiều nghị lực để từ bỏ những thói quen độc hại, ích kỷ, nham hiểm, chúng là nguồn gốc của những xúc cảm bấn loạn và khổ đau. Tu hạnh hay giữ giới là cách tập cho quen dần với lối sống đạo hạnh, bất bạo lực, ý thức được trách nhiệm đối với xã hội và môi sinh, biết trút bỏ những ràng buộc thường tình để chọn sự trong sáng và nhẹ nhàng cho tâm thức. Người biết giữ giới sẽ tạo ra một bầu không khí an bình chung quanh họ. Nhà hiền triết Ấn độ Ramana Maharshi (1879-1950) có nói một câu như sau : « Tự sửa đổi chính ta tức là sửa đổi cả thế giới. Mặt trời chiếu sáng một cách tự nhiên. Nó không tìm cách sửa đổi ai cả. Vì nó rạng ngời, cho nên cả thế giới này chan hoà ánh sáng. Tự sửa đổi lấy ta là một phương cách đem đến ánh sáng cho thế giới này ». Như vậy, tự giữ giới không phải vì ta mà vì những người chung quanh, khi hiểu được như thế việc giữ giới sẽ trở thành một hành vi của từ bi, của yêu thương và rộng lượng, một hành vi vị tha, tự nhiên như hơi ta thở, như dòng máu đỏ đang tuần lưu trong huyết quản của ta.
Giữ giới gồm có hai khía cạnh, vừa thụ động lại vừa tích cực : thụ động là tránh không làm những việc độc hại, tích cực là cố gắng thực thi những điều lợi ích. Có mười hành vi tiêu cực phải tránh và mười hành vi tích cực nên làm. Các hành vi ấy thuộc về thân xác, ngôn từ và tâm thức, và được phân bố như sau :
MƯỜI HÀNH VI TIÊU CỰC PHẢI TRÁNH
THÂN XÁC
|
NGÔN TỪ
|
TÂM THỨC
|
|
|
|
MƯỜI HÀNH VI TÍCH CỰC PHẢI THỰC THI
THÂN XÁC
|
NGÔN TỪ
|
TÂM THỨC
|
|
|
|
Thiền tông đưa ra mười giới luật có vài nét khác biệt nhỏ với những gì vừa trình bày trên đây :
THÂN XÁC
|
NGÔN TỪ
|
TÂM THỨC
|
|
|
|
Giữ giới bằng cách tôn trọng những hành vi cấm đoán tương đối dễ dàng, nhờ vào bẩm tính tự nhiên biết phân biệt điều phải với điều trái, hoặc nhờ vào sự sợ hãi phải mang nghiệp tiêu cực vào thân. Tuy nhiên, giữ giới còn có một cấp bậc tinh tế hơn như thế khi ý thức được ý nghĩa sâu xa của các giới luật. Chẳng hạn ta không sát sinh, nhưng ta còn phải biết yêu thưong sự sống, thấy sự sống của muôn loài là hạnh phúc của ta. Không được dòm ngó của cải của kể khác, nhưng ta phải biết hân hoan với sự giàu sang của kể khác, với sự no ấm của kể khác, khi càng hân hoan với hạnh phúc của kẻ giàu sang, ta lại càng sót thương và giúp đỡ kẻ bần hàn.
Giữ giới bằng mười điều tích cực khó hơn vì phải cần đến lòng nhiệt tâm, vị tha và nhân ái, đòi hỏi ta phải ý thức và cố gắng trong từng hành vi của thân xác, trong từng lời nói và trong mỗi tư duy của ta. Thể dạng tinh tế của giới luật sẽ trực tiếp đưa đến những hành vi tích cực, chẳng hạn không sát sinh giúp ta nhìn thấy cái hạnh phúc của muôn loài, không trộm cắp giúp ta biết yêu thương kẻ cơ hàn, không tà dâm để biết yêu thương kẻ nghèo đói phải bán thân cho kẻ khác, để không lường gạt và lợi dụng kẻ khờ khạo và yếu đuối. Thể dạng tinh tế của mười điều tích cực chính là lòng thương người, nhìn xa hơn nữa là tình yêu nhân loại, và cao hơn nữa chính là lòng từ bi vô biên đối với tất cả chúng sinh.
II. TU ĐỊNH (SAMATHA)
Khía cạnh thuật ngữ
Tu định tức là thiền định, đây là phép tu tập mà nhiều người hiểu sai hoặc rất mơ hồ. Vì thế cần phải định nghĩa cho rõ thế nào là thiền định. Nhiều người chưa bao giờ ngồi thiền nhưng lại muốn biết thiền cái là gì, nhiều người ngồi thiền nhưng muốn biết ngồi thiền để làm cái gì ? Ngay trên phương diện thuật ngữ đã có nhiều chữ không chính xác, thiền theo nghĩa rộng tiếng Phạn gọi là bhavana, có nghĩa là luyện tập cho quen dần. Nhưng người ta thường lầm lẫn và xem thiền đồng nghĩa với chữ dhyana, dhyanacó nghĩa là nhất tâm, tập trung tâm thức. Người ta còn lầm lẫn chữ thiền với chữ samatha, samatha có nghĩa là định, hay đúng hơn là bình lặng, thăng bằng trong tâm thức. Cũng xin chú ý là hai chữ dhyana và samatha cũng thường được dùng một cách lẫn lộn, nhưng đây lại là một vấn đề khác. Tóm lại tu định là luyện tập cho tâm thức được an bình và thăng bằng.
Chữ thiền được các ngôn ngữ Tây phương dịch là meditation, nếu hiểu theo nghĩa thông thường của chữ này là suy tư, suy ngẫm là sai. Nhưng nếu tìm hiểu gốc của chữ này trong tiếng La tinh thì ta sẽ thấy chữ meditation do chữ medeor mà ra, chữmedeor có nghĩa là chăm xóc, từ chữ medeor lại cho ra chữ medico, chữ này có nghĩa là chữa trị, nếu hiểu thiền hay tu định là sựchữa trị cho tâm thức thì không đến đổi sai lắm.
Ý nghĩa của tu thiền
Thiền nói chung hay tu định nói riêng không phải là cách thức tu tập để đạt đến một thể dạng tâm thức ly gián với ngoại cảnh, với môi trường chung quanh, với thực thể bên ngoài. Sự bất động của thân xác và nới lỏng căng thẳng bên trong không có nghĩa là làm cho tâm thức tê liệt. Thiền cũng không có nghĩa là lắng vào một thể dạng vô thức (vô tâm, vô ý thức), một thể dạng thôi miên, u mê tâm thần, làm mất sự suy nghĩ và sáng suốt. Thiền cũng không phải là hành vi tréo chân ngồi xuống để gây chiến với những tư duy đủ loại, những xúc cảm bấn loạn hiển hiện trong tâm thức.
Vậy tu thiền hay tu định là gì ? Đó là một phương tiện giúp ta cảm nhận một cách đúng đắn và chính xác những giác cảm của ta, những tư duy trong tâm thức, và mối liên hệ của chúng với môi trường chung quanh. Nên hiểu rằng Phật giáo xem tâm thức là một cơ quan giác cảm ngang hàng với những cơ quan giác cảm khác, tư duy là những cảm nhận phát sinh từ cơ quan giác cảm gọi là tâm thức. Trên phương diện tổng quát, thiền hay thiền định là tập sống với những kinh nghiệm, những cảm nhận về thể dạng tự nhiên của tâm thức và thân xác, thoát khỏi mọi phiền toái và ảnh hưởng phụ họa hay bấn loạn. Tập như thế tức là tìm cách đơn giản hoá hoạt động của tâm thức và mọi cảm nhận : ý thức nhưng không chờ đợi, không chủ đích, không tính toán. Nếu hiểu được như thế, ta sẽ thấy rằng thiền khi ngồi im hay thiền khi đang sinh hoạt sẽ không khác nhau bao nhiêu : mục đích là đơn giản hoá mọi hoạt động và tư duy.
Nhưng đơn giản hoá là gì ? Trong kinh A-hàm (Agama), Phật có giảng như sau :
« Trong mỗi người có năm tên giặc cướp lôi cuốn họ vào một cuộc sống tồi tệ.
Năm tên giặc cướp ấy là gì ?
1- Hình tướng
2- Giác cảm
3- Sự cảm nhận
4- Sự tạo tác
5- Tri thức
Con người lúc nào cũng bận tâm suy nghĩ đến năm thứ giác cảm đó »
Hình tướng (gồm những hiện tượng thuộc ngoại cảnh và tư duy thuộc tâm thức) được các giác cảm nhận biết hay cảm nhận, từ cảm nhận sinh ra tạo tác, tạo tác biến thành tri thức, tâm thức bám víu vào những tạo tác hay tri thức ấy và cho đấy là « cái ta » hay « cái ngã », cái ta hay cái ngã là nguồn gốc sinh ra mọi bấn loạn. Vậy đơn giản hoá tức là không cho quá trình trên đây hoàn tất chu kỳ lôi cuốn của nó, chận đứng không cho các tên cướp tung hoành và khuấy động. Một cách cụ thể, khi ta ngồi thiền, ta nghe có tiếng động chung quanh, ta nhận biết là có tiếng động, và giản dị chỉ có vậy, nhưng không cho tiếng động (có thể là tiếng ho của một người nào đó, tiếng xe chạy, tiếng đàn hát…) sinh ra tạo tác, tức tiếng động không làm cho ta bực bội hay ưa thích. Khi có người nói chuyện, ta nghe tiếng nói, nhưng không phân biệt xem tiếng nói êm ái hay cọc cằn, ý nghĩa của câu nói là gì, họ nói chuyện với ai, khen ngợi hay châm biếm ai…, không phân biệt tức là ta không diễn đạt, không cho phép tiếng nói tạo tác. Khi một tư duy hiển hiện ra trong tâm thức, dù tư duy đó hướng về quá khứ hay phóng nhìn vào tương lại, dù tư duy đó bám vào bất cứ một sự kiện nào hay một hình tướng nào, ta cũng không cho phép nó tạo tác để đưa đến những xúc cảm như ưa thích, ghét bỏ, hối tiếc, nóng giận, yêu thương, oán hờn, vui sướng, thích thú, hy vọng, tính toán, hoạch định v.v. và v.v…, tóm lại là những xúc cảm bấn loạn. Hãy « nhìn », quan sát và theo dõi tư duy ấy hiển hiện ra sao, nó phát triển như thế nào rồi biến mất như thế nào, sau đó một tư duy khác lại tiếp tục hiển hiện ra sao…và cứ liên tục như thế. Khi ta nhận ra những tư duy ấy xuất phát bằng sự cảm nhận của giác quan tâm thức, không phải là những gì có sẳn và tự tại trong ta, chúng giống như những tên giặc cướp ẩn nấp sẵn sàng lôi kéo ta vào những xúc cảm bấn loạn, và khi đã thực hiện được như thế tức là ta đã đạt được kết quả của tu định (samatha), tức là thể dạng thăng bằng và phẳng lặng của tâm thức : có nghĩa là tiếp nhận một cách đơn giản mọi cảm nhận nhưng không bám víu gì cả.
Trong kinh A-hàm, Phật có giảng như thế này :
« Khi tâm thức được kiểm soát, nó sẽ giống như một khối đá nằm phơi ra bốn hướng : khối đá nằm giữa sân, dù mưa có rơi cũng không làm cho nó tan ra được, dù mặt trời nung nóng cũng không làm cho nó chảy ra được, dù gió có thổi cũng không nhấc bổng nó lên được.
Một tâm thức được kiểm soát sẽ giống như khối đá ấy »
Thiền sư Hương Hải (1627-1715) đời nhà Lê, có viết một bài thơ như sau :
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm
Xin thoát dịch như sau :
Cánh nhạn đường mây bầu trời rộng,
Ao thu đáy nước thoảng bay ngang.
Cánh chim nào nhớ đường bay mỏi,
Đáy ao đâu níu một đường mây.
Tư thế ngồi thiền
Một cách thực tế, muốn tu định phải làm như thế nào ? Trước hết phải ngồi xuống để thiền, sau đó khi đã quen thì ta có thể thiền bất cứ lúc nào : khi đi, khi đứng, khi ăn, khi làm việc…Tư thế ngồi thiền thật quan trọng vì đó là kinh nghiệm hàng ngàn năm lưu lại, tư thế ngồi thiền giúp ta giữ cho thân xác bất động thật lâu nhưng không cần cố gắng nhiều. Tại sao lại giữ cho thân xác bất động ? Vì thân xác tương đối dễ cho ta giữ yên, nhưng nếu ta không chủ động được thân xác, thì đối với tâm thức luôn luôn bay nhảy và biến động, làm thế nào để nắm bắt được nó. Thân xác và tâm thức liên hệ mật thiết với nhau, giữ bất động và thăng bằng cho thân xác sẽ giúp khắc phục tâm thức và đem đến sự an bình dễ dàng hơn. Tư thế ngồi thiền được tóm tắt trong bảy điểm như sau :
- Ngồi trên một cái gối gọi là tọa cụ, hai chân tréo vào nhau theo tư thế kiết già : mu bàn chân này gác lên đùi của bàn chân kia. Nếu không làm được như thế thì ngồi bán già : mu của một bàn chân gác lên đùi của chân kia. Cần nhất phải thoải mái, nếu thấy mỏi hay tê buốt có thể đổi bên.
- Xương sống thật thẳng, phần xương sống ngang thắt lưng có thể hơi ưỡn ra phía trước một tí, giúp cho phần bụng không bị ép, đồng thời giúp màng ngăn nội tạng giữa bụng và ngực căng thẳng. Xương sống hơi ưỡn ra ở vị trí ngang thắt lưng cũng giúp cho hai vai được thoải mái.
- Hai vai dang thẳng ra để mở rộng lồng ngực, giữ hai vai tự nhiên, không co rút cũng không buông xệ.
- Hai tay để trước bụng, đặt lên hai chân, mu bàn tay phải đặt lên lòng bàn tay trái, hai ngón tay cái chạm nhẹ vào nhau. Đối với thiền tông Zen, có thể đặt tay phải bên dưới và tay trái bên trên, hai ngón cái chạm vào nhau, hơi cong lên hợp chung với ngón trỏ bên dưới tạo thành một vòng tròn. (Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khuyên nên đặt bàn tay trái bên dưới hiệu quả hơn).
- Đầu hơi cuối xuống cho gáy được thẳng.
- Miệng, hàm và lưỡi để tự nhiên, lưỡi dán lên nóc họng, đầu lưỡi chạm vào răng.
- Mắt hé mở nhìn ra phía trước, hơi ngó xuống, nhìn vào một khoảng cách trước mặt xa độ 3m trên mặt đất, nhưng chỉ nhìn một cách mờ ảo không chú tâm vào các vật thể bên ngoài, phải nhìn vào bên trong để theo dõi những biến động của tâm thức. Nếu như hai mi mắt tự động xụp xuống, có thể giữ yên như thế, không cần cố gắng giữ cho mắt hé mở hay mở to.
Khi ngồi thiền phải thật tỉnh thức, quan sát hơi thở và các tư duy đang tiếp nối nhau hiển hiện và biến động trong tâm thức, luôn luôn cảnh giác để giữ tư thế ngồi cho thật đúng, không khòm lưng, xệ vai, hoặc quên khuấy để cho hai ngón tay cái rơi xẹp xuống…và nhất là không ngủ gục. Mông và hai đầu gối chống xuống mặt đất, vững chắc như một quả núi, trọng tâm ăn sâu vào lòng đất. Xương sống thẳng, vương lên để hội nhập với không gian, đồng thời chú tâm vào hơi thở để hội nhập với sự sống. Hai chân tréo lại với nhau để chứng tỏ quyết tâm ngồi im và phát huy sức mạnh của bất bạo động.
Ngồi như thế để tạo cho tâm thức sự an bình, cởi mở và không vướng mắc. Nhưng đạt thể dạng ấy để làm gì ? Tu định không phải là một đặc thù của Phật giáo, một vài truyền thống ngoài Phật giáo cũng tập thiền như thế, nhưng cách tu tập của các truyền thống ấy chỉ cốt tạo ra sự cân bằng và trong sáng cho cho tâm thức, và dừng lại ở đó. Người Phật giáo phải nhìn xa hơn như thế, tu thiền trong Phật giáo không phải ngồi xuống để tìm lấy sự thăng bằng và an vui cho ta, nhưng ta ngồi xuống vì sự an lành của chúng sinh. Tạo sự an bình và trong sáng cho tâm thức để quán thấy thực thể của vạn vật, nhìn thấy bản chất rốt ráo và tối thượng của hiện thực chung quanh để tự Giác ngộ, trong mục đích giúp đỡ và hướng dẫn tất cả chúng sinh một cách hữu hiệu hơn. Trong tập 1 của bộ Quảng thích Bồ đề tâm luận (Bhavanakrama) của ngài Liên hoa Giới (Kamalasila), thế kỷ thứ VIII, có viết như sau : « Khi đã buộc được tâm thức vào một đối tượng thiền định, ta sẽ có thể khảo sát đối tượng ấy nhờ vào sự quán xét sâu xa. Và chính từ đó sẽ bùng lên sự hiểu biết trong sáng và rồi hạt mầm của vô minh sẽ bị loại bỏ. Nhưng nếu không thực hiện được như thế, thì việc tập luyện thiền định một cách đơn giản, theo lối của những người ngoài Phật giáo sẽ không thể nào loại trừ được những ô nhiễm ».
Sự hiểu biết trong sáng và quán thấy tối thượng là Trí tuệ. Trí tuệ đưa đến Giác ngộ, và Giác ngộ đưa đến Giải thoát. Vậy tu định tức chuẩn bị cho tâm thức đạt được sự hiểu biết siêu nhiên.
III. TU TUỆ
Tuệ có nghĩa là Trí tuệ hay Tuệ giác, tiếng Phạn gọi là Prajna, tức là sự hiểu biết tối thượng. Tu tập để đạt đến sự hiểu biết tối thượng gồm có ba giai đoạn :
- nghe giảng hay nghiên cứu những lời giảng huấn trong kinh sách
- suy tư, quán xét, phân tích ý nghĩa sâu xa của những lời giảng huấn hay những lời ghi chép trong kinh sách, (chẳng hạn suy tư về tứ diệu đế, vô thường, duyên sinh– duyên khởi, vô ngã, tánh không….)
- thiền định để quán thấy và cảm nhận trực tiếp sự hiểu biết tối thượng, vượt khỏi mọi quá trình lý luận và phán đoán.
Ba giai đoạn tu tập trên đây không nhắm mục đích tích lũy sự hiều biết thông thường, nhưng hướng vào sự quán thấy bản thể đích thực của ta và thực thể của thế giới chung quanh, sự quán thấy này còn gọi là thiền Vipasana, một thể dạng tâm thức linh động và tích cực hơn thể dạng định (samatha). Giống như ba cấp bậc tu tập, ba giai đoạn hiểu biết trên đây liên đới và hổ trợ cho nhau để phát huy sự hiểu biết tối thượng. Hai giai đoạn đầu dựa vào sự hiểu biết quy ước, nhưng giai đoạn thứ ba phải vượt khỏi mọi hiểu biết công thức và những tạo dựng nhị nguyên của tri thức thông thường. Giai đoạn thứ ba căn cứ vào trực giác, vào sự tĩnh lặng của tâm thức do thiền định đem đến, để quán thấy thực thể của ta và bản thể của vũ trụ. Một số người có sức tập trung cao độ, có thể bước thẳng từ tu định đến sự quán thấy trực tiếp về bản thề của vạn vật, không cần đến hai giai đoạn đầu. Đây cũng là cách tu tập của Thiền tông nói chung và cùa học phái Zen nói riêng, nhưng dù sao thực hiện được điều này rất khó, tốt hơn hết nên dựa vào nghiên cứu và suy luận để hổ trợ cho sự quán thấy. Nhiều người muốn đạt đến sự quán thấy trực tiếp bằng thiền quán không cần học hỏi và suy luận, thông thường dễ bị hoang mang và bỏ dở việc tu tập.
Sự hiểu biết quy ước và sự hiểu biết tối thượng
Phần trên đây có đề cập đến sự hiểu biết quy ước và sự hiểu biết vượt lên trên những tạo dựng nhị nguyên của tri thức, vậy những khái niệm ấy có nghĩa là gì ? Trong đời sống thường nhật, ta phát biểu, đối thoại, suy xét, lý luận, suy nghĩ…kể cả trên phương diện khoa học, triết học v.v. bằng cách dựa vào những quy ước. Nếu không có quy ước thì không thể có ngôn ngữ và cũng không có sự hiểu biết. Thí dụ, nếu có hai người thuộc hai quốc tịch khác nhau và xử dụng hai ngôn ngữ khác nhau, họ sẽ không thể đối thoại để hiểu nhau được, vì mỗi người căn cứ vào những quy ước riêng của mỗi ngôn ngữ. Tóm lại tất cả những hiểu biết thu đạt được đều dựa trên quy ước, sự hiểu biết đó tạo dựng một sự thực quy ước, một thế giới thiết lập bằng các quy ước. Mọi hiện tượng, tức mọi vật thể và biến cố chung quanh ta, chỉ có thể đứng vững dựa vào quy ước, chúng không có tính cách tuyệt đối, rốt ráo và tối thương. Người ta còn gọi sự hiểu biết ấy là sự hiểu biết nhị nguyên hay « đối nghịch », chẳng hạn khi ta nóitrắng đương nhiên phải hiểu có đen, vì nếu chưa hề có đen thì không thể phân biệt được trắng, và như thế trắng cũng không có ; ngược lại, quá trình lý luận đối với đen cũng vậy. Vô minh và hiểu biết có cùng bản chất với nhau nhưng mang đặc tính nhị nguyên, hổ trợ cho nhau và đối đãi với nhau : nếu không có vô minh thì hiểu biết không có nghĩa gì cả, và ngược lại. Phân biệt một bên làchủ thể nhận biết và một bên là đối tượng được nhân biết cũng gọi là một sự hiểu biết mang tính cách nhị nguyên. Tóm lại sự hiểu biết nhị nguyên và quy ước là sự hiểu biết tương đối, dùng để xác định và tạo dựng một sự thực tương đối. Tuy nhiên sự hiểu biết quy ước bằng tri thức cũng cần thiết để phân tích hiện thực, chẳng hạn như để cảm nhận một cách mạch lạc và minh bạch về nguyên nhân của khổ đau và con đường đưa đến chấm dứt khổ đau chẳng hạn.
Sự hiểu biết vượt lên trên mọi quy ước và khái niệm về nhị nguyên gọi là sự hiểu biết tối thượng (prajna), nó không phải là một thể dạng hiểu biết của tri thức thông thường. Sự hiểu biết tối thượng còn gọi là sự hiểu biết tuyệt đối, và sự hiểu biết ấy chỉ có thể đạt được xuyên qua trực giác và bằng cách tu tập thiền định. Sự hiểu biết tuyệt đối dùng để cảm nhận và « nắm bắt » sự thực tuyệt đối, tức thực thể của mọi hiện tượng.
Đối tượng của sự hiểu biết tuyệt đối
Vậy tu tuệ tức là cách tu tập để đạt được sự hiểu biết tối thượng và tuyệt đối, một sự hiểu biết siêu nhiên gọi là Trí tuệ Ba-la-mật (Prajnaparamita). Giai đoạn cuối cùng, trong ba giai đoạn tu tuệ, giúp đạt được Trí tuệ Ba-la-mật, và Trí tuệ Ba-la-mật dùng để quán thấy sự thực tuyệt đối của mọi hiện tượng. Khi đã nắm bắt bằng trực giác một cách hoàn hảo, rốt ráo và tối thượng bản chất của mọi vật thể và mọi biến cố nhờ vào Trí tuệ Ba-la-mật có nghĩa là đã Giác ngộ. Bản chất của hiện tượng mang nhiều sắc thái như Duyên khởi, Vô thường, Vô ngã và tánh Không. Tính chất vô thường và duyên khởi của vạn vật có thể cảm nhận được bằng sự học hỏi và lý luận thuộc vào hai giai đoạn đầu của tu tuệ, nhưng vô ngã và tánh Không đòi hỏi sự quán thấy sâu xa hơn. Sau đây là những định nghĩa sơ lược về duyên khởi, vô thường, vô ngả và Tánh không :
a) Duyên khởi
Duyên sinh hay duyên khởi tức là sự tương liên, tương kết và tượng tạo của mọi vật thể và mọi biến cố. Tất cả mọi hiện tượng chỉ có thể hiện hữu bằng sự kết hợp của nhiều điều kiện, tức nhiều cơ duyên, để tạo ra chúng, không có một vật thể hay một biến cố nào có thể tự nó hiện hữu một cách độc lập. Từ những ảo ảnh cho đến những cơn ác mộng trong giấc mơ, từ những tư duy trong tâm thức cho đến các vật thể và biến cố trong vũ trụ, tất cả đều liên đới với nhau, chúng tạo ra những điều kiện tác động với nhau, để cùng nhau hiện hữu.
Lý duyên khởi hay sự tương liên và tương tạo của vũ trụ được Phật tóm lược bằng khái niệm nhân quả và cụ thể hoá bằng bánh xe quay tròn gồm 12 nan hoa tượng trưng cho mười hai mối dây tương liên gọi là Thập nhị nhân duyên.
Trong Kinh Majjuihima-Nikaya (phẩm III, trang 63), ghi lại lời giảng của Phật như sau :
Imasmin sati idam hoti
Imassuppàdà idam uppajajati
Imasmin asati idam na hoti
Imassa nirodhà idam nirajjhati
Dịch nguyên nghĩa :
Khi cái này có, cái kia có
Cái này hiển hiện, cái kia hiển hiện
Khi này không có, cái kia không có
Cái này chấm dứt, cái kia chấm dứt
Dịch một cách dễ hiểu hơn :
Cái này có, cái kia hình thành
Cái này hiển hiện, cái kia sinh ra
Cái này không có, cái kia không hiển hiện
Cái này chấm dứt, cái kia không sinh ra
Câu trên đây là một trong những câu đơn giản nhất và đồng thời cũng thâm sâu nhất trong số các lời giảng huấn của Phật, tuy hết sức đơn giản nhưng câu ấy đã giải thích trọn vẹn bản chất của vũ trụ này. Các nhà khoa học và các triết gia Tây phương đều vô cùng khâm phục ý nghĩa sâu xa hàm chứa trong câu nói đơn giản trên đây của Phật.
b) Vô thường
Lý duyên khởi hay tương liên cho thấy mọi vật thể và biến cố đều liên đới với nhau để hiển hiện hay tự hủy hoại. Nếu nhìn kỹ hơn ta sẽ thấy rằng những điều kiện hay cơ duyên tạo ra sự liên đới giữa mọi hiện tượng đều luôn luôn biến động và đổi thay. Hậu quả đưa đến là mọi vật thể và biến cố cũng đều biến động và đổi thay không ngừng, từ những tư duy và xúc cảm trong tâm thức cho đến tất cả mọi hiện tượng trên thân xác và chung quanh ta : chẳng hạn như hàng triệu tế bào trên thân xác được sinh ra và chết đi trong từng giây phút một, những đổi thay đó cũng đang tác động trên từng cọng cỏ đang ngã nghiêng trong gió trước sân, cho đến muôn vàn tinh tú đang tuần lưu trong vũ trụ.
Không có bất cứ gì đứng yên và bất động và không biến đổi. Những chuyển động luân lưu nhất là sự vận hành « phi vật chất » của tư duy và những xúc cảm trong tâm thức. Có những chuyển động đột ngột như khi ta bẻ gảy một cành cây, một bong bóng bị nổ hay một tia chớp trên trời. Có những chuyển động chậm hơn như quá trình của hiện tượng động đất chẳng hạn. Ta có cảm giác như mặt đất đứng yên, nhưng thật ra các mảng lục địa trôi nổi trên nền đá chảy lỏng trong lòng đất sâu. Các mảng lục địa bị nứt, gẫy, trôi giạt, chồm lên nhau, dồn ép vào nhau, hoặc tách xa nhau, mặt biển thu nhỏ hay mở rộng... Tât cả những chuyển động đó rất chậm, tốc độ xê dịch chỉ trung bình vài phân trong một năm, nhưng khi hai mảng lục địa ép vào nhau hoặc chồm lên nhau, đến một lúc nào đó bất thần bị gẫy, và động đất xảy ra. Tóm lại mặt đất luôn luôn đổi thay, nhưng con người phân chia và tranh giành lãnh thổ trên những mảng lục địa đang thay hình đổi dạng ấy để gây chiến với nhau. Nhìn xa hơn, ta sẽ thấy vũ trụ giống như một đám lốc xoáy lộn và cuốn tung những hạt bụi thiên thể, nhưng con người vẫn cố đi tìm một thứ gì trường tồn và bất biến trong đó và nhìn bầu trời như bất động.
Tóm lại, mọi hiện tượng không bao giờ giữ nguyên như thế mà luôn luôn đổi thay và biến mất trong từng giây phút một. Tính cách biến động và nhất thời của mọi hiện tượng là nguồn gốc của khổ đau, chúng tạo ra sự lo âu thường xuyên trong sự sống, và cái chết là một trong những mối lo âu khiếp đảm nhất. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma có nói như sau : « Tất cả đều vô thường. Chính cái lẽ vô thường đã tác động trên chu kỳ của mọi sự hiện hữu ». Chu kỳ của mọi sự hiện hữu chính là thế giới của luân hồi.
c) Vô ngã
« Cái tôi » là một tổng hợp của nhiều nguyên nhân và điều kiện, vì thể cái tôi không phải là một thứ gì trường tồn và bất biến, sự hiện hữu của nó lệ thuộc vào nhiều cơ duyên và điều kiện. Khi những cơ duyên và điều kiện tạo ra « cái tôi » không còn hội đủ, thì « cái tôi » cũng sẽ biến mất. Khái niệm về « cái tôi » hay « cái ngã » đúng hơn chỉ là một ảo giác. Ta không thể xác định, hình dung hay tưởng tượng ra được cái gì làm chủ thể của tư duy, ta cũng không tìm thấy cái gì làm chủ thể nhận biết những nhận biết, chẳng qua vì cái chủ thể ấy là kết quả nhất thời của một sự tổng hợp từ nhiều điều kiện, và tự nó, nó không hàm chứa một thực thể nào cả.
Xin nhắc lại trong phần mô tả về tu định trên đây có đề cập đến năm tên giặc cướp là : hình tướng, giác cảm, sự cảm nhận, sự tạo tác và tri thức. Khi thuyết giảng cho năm đệ tử trong khu vườn hưu ở Ba-la-nại, Phật có nói đến những bấn loạn ấy như sau « Những thứ ấy không thuộc vể cái tôi, cái tôi cũng không phải là những thứ ấy, những thứ ấy không phải là cái ngã của ta ». Kinh sách gốc Hán gọi năm thứ ấy là ngũ uẩn : sắc, thụ, tưởng, hành và thức, chúng tạo ra cái ảo giác của « cái ta », hay « cái ngã » của ta.
d) Tánh Không
Trong kinh Kim cương Phật có nói như sau :
« Như những vì sao trên trời, như đám ruồi đang bay lượn, hay đóm lửa của ngọn đèn,
Như một ảo giác ma thuật, một giọt sương mai, hay một bọt bong bóng,
Như một giấc mơ, một tia chớp, hay một đám mây,
Hãy xem những hiện tượng phát sinh bằng điều kiện cũng giống như thế »
Phật giảng rằng tất cả mọi hiện tượng mà ta cảm nhận được không hàm chứa một thực thể nào cả, chúng chỉ hiện hữu trong khuôn khổ một của một thứ hiện thực mà ta đem gán cho chúng và ta xem cái hiện thực ấy là « khách quan ». Mọi vật thể và biến cố, kể cả « cái ta » hay « cái tôi », không hàm chứa một sự hiện hữu khách quan, nội tại hay tự tại nào cả. Tự nơi chúng, chúng không hiện hữu, chúng chỉ hiện hữu nhờ vào quá trình của quy luật nguyên nhân và hậu quả, quá trình đó nằm trong mạng lưới bao quát của hiện tượng tương liên, tương kết và tương tạo. Mọi hiện tượng không mang một đặc tính cá thể nào, cũng không hàm chứa một tự tính nào, không có một quy chế độc lập nào cả. Chúng luôn luôn lệ thuộc vào những điều kiện khác để hiện hữu. Bản chất đích thực của chúng chỉ là ảo giác, không thật, chỉ đơn giản là những danh xưng mà ta gán cho chúng, hay nói một cách khác chúng là những tạo dựng của tâm thức. Phật có nói như sau :
« Hình tướng và tất cả những vật thể được chỉ định chỉ là danh xưng. Những danh xưng đó chính là bản chất của chúng » (Lời Phật trong kinh Bát nhã Ba-la-mật)
« Này Tu-bồ-đề, Như Lai bảo rằng các hạt bụi không phải thật, chúng chỉ đơn giản được gọi là những hạt bụi mà thôi. Như Lai bảo rằng vũ trụ không phải thật, nhưng nó chỉ đơn giản được gọi là vũ trụ mà thôi » (Lời Phật trong kinh Kim cương).
Tóm lại mọi hiện tượng trên bình diện tối hậu đều không thật, không mang một thực thể bất biến và trường tồn nào cả, chúng chỉ hiện hữu trên phương diện sự thực tương đối, tức một sự thực chỉ dựa vào sự hiểu biết nhị nguyên và quy ước. Trên phương diện sự thực tuyệt đối, chúng là tánh Không (Shunyata). Khái niệm về tánh Không áp dụng cho mọi hiện tượng (dharmashunyata) và kể cả con người (pudgalashunyata). Long Thọ có nói như sau : « Các cấu hợp không phải là cái ngã, cấu hợp không nằm trong cái ngã. Cái ngã không có trong các cấu hợp, nhưng cái ngã cũng không có nếu không có những cấu hợp ». Thiền sư Tăng Xán (thế kỷ thứ VI), vị tổ thứ ba của Thiền tông Trung quốc, cũng có nói như sau : « Các vật thể là các vật thể chẳng qua vì [đấy là] tâm thức. Tâm thức là tâm thức chẳng qua vì [đấy là] vật thể. Nếu ta muốn phân biệt chúng là cái này hay cái kia, thì từ nguyên thủy chúng chỉ là trống không ».
Tánh Không là một khái niệm đặc thù của Phật giáo, ngoài Phật giáo không có một nền triết học hay khoa học nào nhìn thấy và nêu lên chân lý đó của hiện thực. Sau đây là một vài trích dẫn các câu phát biểu có ít nhiều liên quan đến tánh Không của các khoa học gia danh tiếng : « Chúng ta không quan sát chính thiên nhiên, nhưng quan sát thiên nhiên xuyên qua phương pháp tìm hiểu của ta » (Werner Heisenberg, 1901-1976, giải Nobel 1932 về Vật lý lượng tử), câu này có nghĩa là sự thực quan sát lệ thuộc vào phương pháp, tức sự hiểu biết chủ quan và quy ước của ta, cái sự thực đó không phải là thực thể của thiên nhiên. « Một thực thể độc lập không thể đem gán cho bất cứ một hiện tượng nào, cũng như cho bất cứ một sự bố trí quan sát nào » (Niels Bohr, 1885-1962, giải Nobel 1922 về Vật lý lưởng tử), ý nghĩa câu này còn đi xa hơn nữa : mọi hiện tượng kể cả những phương pháp và kết quả đo đạt từ máy móc khoa học cũng không hàm chứa một thực thể nào cả.
Sau cùng, cũng nên minh sát rằng các khái niệm như tương liên (duyên khởi), vô thường, vô ngã và tánh Không, không phải là những khái niệm độc lập, đó chỉ là những dạng thể hay những đặc tính cá biệt của hiện thực. Một hiện tượng tương liên vì gánh chịu quy luật của nhân quả nên luôn luôn biến động và vô thường, vì vô thường nên nó không thật, bản chất tối hậu của nó là vô ngã, vô ngã tức là tánh Không.
Khái niệm về tánh Không không phải là một cách nhìn cá biệt của tâm thức, và nhất định không phải là một lý tưởng cao cả mà người tu học phải đạt được. Đó chỉ là một phương tiện giúp tâm thức phát huy sự hiểu biết để quán thấy bản chất tối hậu của hiện thực, hay nói cách khác để nhìn thấy cái thực thể đích thực của mọi hiện tượng. Sự quán thấy ấy gọi là Trí tuệ hay sự Giải thoát. Tuy nhiên, kinh sách có nói là chỉ có Phật mới nhìn thấy một cách trực tiếp và đồng loạt hai sự thực : tương đối và tuyệt đối. Sự quán thấy của ta vẫn còn ít nhiều vướng mắc trong phân tích, lý luận và nhị nguyên, vì thế sự tu tập phải kiên trì và lâu dài, suốt trong ba thời gian vô tận.
Kết luận
Bài viết này chỉ có mục đích trình bày sơ lược về các giai đoạn tu tập Phật giáo và đưa ra một vài định nghĩa, nếu muốn đi xa hơn tức là tu tập thật sự thì phài tự học hỏi trong kinh sách hoặc với các vị thầy giỏi và chân chính, nhất là phải đem ra thực hành những điều đã học được. Về tu giới, có thể tìm hiểu thêm trong Bát chánh đạo, Lục Ba-la-mật…Muốn tu định cần phải tu tập lâu dài về thiền định. Muốn tu tuệ cần có một số vốn hiểu biết vững chắc về những lời giảng huấn của Phật, một tâm thức bình lặng, nhất là sức mạnh của suy luân và trực giác của quán thấy.
Phật giáo là một tín ngưỡng tích cực, điềy ấy có nghĩa là phải tu tập, và sự tu tập có tính cách cá nhân. Chư Phật không ban cho ta bất cứ một cái gì sẳn có, chính ta phải tự tìm lấy sự giải thoát cho ta. Tu tập giúp đạt được ba khả năng quý báu nhất : lòng từ bi, sự trong sáng và trí tuệ. Hoàn thiện tu giới đưa đến lòng từ bi vô biên ; hoàn thiện tu định đem đến sự trong sáng cho tâm thức ; hoàn thiện tu tuệ đưa đến sự hiểu biết siêu nhiên và sự Giải thoát.
Dù ta đậu bằng tiến sĩ triết học Phật học cũng không có nghĩa là ta đã xoá bỏ được vô minh, mà thật ra ta chỉ gom góp thêm một mớ kiến thức nhị nguyên, công thức và quy ước mà thôi. Dù ta có tụng kinh trong nhiều chục năm cũng không có nghĩa là ta đã đạt được tỉnh thức và giác ngộ. Dù ta có khổ công cầu an, cầu siêu cho vô số người cũng không có nghĩa là ta đã đạt được sự giải thoát cho chính ta. Đối với Phật giáo, việc tu tập để biến cải chính tâm thức ta mới thật là một điều chính yếu và cần thiết.
Giữ giới không phải vì ta mà vì hạnh phúc của những người chung quanh ; ngồi xuống để thiền định không phải vì ta mà vì sự an bình của thế giới này ; tìm kiếm và quán thấy thực tính của vũ trụ không phải vì ta mà vì sự Giác ngộ cho tất cả chúng sinh. Lòng từ bi luôn luôn là động lực chính, là sức mạnh thúc đẩy việc tu tập. Kinh sách nói rằng muốn đạt được Giác ngộ phải tu tập qua ba thời gian vô biên và vô tận. Vậy muốn vượt qua ba thời gian vô biên và vô tận để giác ngộ, phải cần đến sức mạnh tương xứng phát sinh từ lòng từ bi, có nghĩa là lòng từ bi cũng phải vô biên và vô tận như những thời gian mênh mông.
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma có nói : « Một vị Thầy chỉ nên nói những gì mà ông ta biết, có nghĩa là những kinh nghiệm của ông ta. Nếu những gì thuyết giảng chỉ là lý thuyết đối với ông ta, tốt hơn quý vị nên lật sách ra mà tra cứu, như thế đỡ mất thì giờ hơn ». Ngoài một chút thiện tâm và nhiệt tình, tôi không tự cho là đã đạt được một kinh nghiệm nào cả, những gì trình bày trong bài viết này chẳng qua là những góp nhặt trong sách vở, thu gọn cho dễ hiểu kèm thêm vài lời trích dẫn mà tôi tự cho phép xem như những món ngon vật lạ để hiến dâng cho người đọc, trân trọng như một mâm cơm dọn sẵn mà thôi.
Xin được chấm dứt bài viết này bằng một câu nói của Thiền sư Đạo Nguyên (1200-1252) :
« Có viên đá quý nào tự nhiên trở nên rạng rỡ ? Có kẻ nào tự nhiên thành công khi vừa mới nảy ra trong đầu một ý định ? Viên đá phải được mài bóng. Con người cần phải tập luyện. Hãy cố giữ lấy sự khiêm tốn và đừng bao giờ nới lỏng sự tu tập »
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-125_4-14526_5-50_6-2_17-185_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark