I. VÔ THƯỜNG LÀ MỘT CHÂN LÝ
Thứ
nhất, nói đến vô thường, đó là một chân lý. Dù cho có Phật ra đời hay Phật
không ra đời thì thế gian cũng là vô thường, vẫn luôn biến dịch không đứng một
chỗ. Hiểu được thế
thì cuộc sống của chúng ta bớt vướng mắc và cởi mở nhiều hơn. Lâu
nay, Phật tử đã nghe, hiểu được thế gian là vô thường, nhưng nghe mà có luôn
nhớ như vậy không?
Nghe
thì nghe vô thường, nhưng gặp chuyện vô thường cũng buồn cũng khổ. Nên hôm nay
đưa ra đề tài này để giúp Phật tử nhận sâu thêm đạo lý này, tức là đem Phật
pháp vào cuộc sống thế gian luôn biến dịch thay đổi này.
Người
xưa có câu nói “Thương hải tang điền” tức là biển cả có lúc sẽ biến thành ruộng
dâu, ruộng dâu cũng có thể sẽ biến thành biển cả. Đúng là như vậy. Hiện nay, có
nơi đã lấp biển thành đồng bằng. Quý Thầy vừa viếng thăm nước Hà Lan (Holland)
thấy người ta cũng lấp biển thành đồng bằng làm nơi cư trú. Vậy nói biển cả
biến thành nương dâu quá rõ ràng. Rồi cũng có những chỗ nương dâu biến thành
biển cả. Như vậy, thế gian không hề đứng yên một chỗ hay dừng lại mà con người
lại cứ luôn muốn nắm bắt nó đứng một chỗ, nên chúng ta khổ là vậy đó.
Ví
dụ, ở đời ai sanh ra rồi cũng phải lớn lên, già rồi chết, đó là lẽ thường. Tất
cả sự biến đổi trong thế gian này đều phải trải qua như vậy. Còn chúng ta
thương mến ai thì muốn gặp hoài, không muốn rời không muốn mất, nên khi mất thì
khổ. Là Phật tử chúng ta hiểu rõ định luật vô thường luôn chi phối tất cả, như
có câu “không thể tắm hai lần trong một dòng sông”, tức là khi vừa tắm lên rồi
trở xuống nữa thì dòng nước khác trên kia đổ xuống, không phải dòng nước lúc
trước nữa rồi.
Trong
đời sống hằng ngày cũng vậy, đi đâu cảnh đẹp thì chụp hình để giữ lại, mà có
giữ được không? Thấy cảnh hay, cảnh đẹp muốn giữ lại cho lâu mà giữ không được.
Bởi vì thế gian là luôn thay đổi.
Xưa,
vua Trần Nhân Tông khi đi tu, Ngài lập ra phái Thiền Trúc Lâm nên gọi là Sơ Tổ
Trúc Lâm. Trong bài kệ “Đăng Bảo Đài Sơn” tức là “Lên núi Bảo Đài” trong đó có
câu:
Vạn sự thủy lưu thủy
Bách niên tâm ngữ tâm.
Dịch:
Muôn việc nước trôi nước
Trăm năm lòng nhủ lòng.
Muôn việc trên đời này như nước trôi nước. Dòng nước
này đẩy dòng nước khác, cứ đẩy tới, đẩy tới không dừng, cuộc đời cũng vậy cứ đi
tới, đi tới thôi. Rồi
“trăm năm lòng nhủ lòng”. Tâm mình luôn nhắc thầm với lòng của mình, sự đời nó
luôn biến đổi. Thấy đúng lẽ thật như vậy thì sẽ bớt khổ, nhẹ khổ.
II. KHÉO SỐNG TÙY DUYÊN
Hiểu
được ý nghĩa thế gian là vô thường rồi thì Phật tử khéo biết sống tùy duyên, vì
tùy duyên nên không cố chấp sẽ bớt khổ rất nhiều. Người ta sở dĩ khổ vì cứ lo
bám níu, cái gì qua rồi cố giữ lại, mà giữ không được tức là bất như ý thì khổ
thôi.
Và
nếu ai sống như vậy là sống với quá khứ mà quên hiện tại. Những người lớn tuổi
lâu lâu ngồi nhớ lại một thời oanh liệt của mình rồi tiếc, rồi buồn, như vậy là
quên mất cuộc sống hiện tại. Nếu người khéo biết tùy duyên thì cuộc sống trôi
chảy, mới mẻ, cởi mở rất nhiều.
Xưa,
trên tỉnh cao nguyên miền Đông Tây Tạng, có một ông lão vợ mất sớm nên sống với
người con trai duy nhất trong lều đá. Suốt ngày ông không ngừng quay bánh xe
cầu nguyện rồi đọc câu chú “Án ma ni bát
di hồng”, đứa con trai thì yêu quí con ngựa duy nhất của nó.
Một
hôm, con ngựa đi đâu mất, tìm mãi không thấy, mấy người hàng xóm thấy cảm
thương cho ông. Vì ông chỉ có đứa con trai, và một con ngựa để giúp việc mà
cũng mất nên họ giúp ông đi tìm. Tìm hoài không thấy, họ cảm than cho ông đã
nghèo hẩm hiu lại gặp cảnh này nữa. Tuy vậy, ông cũng có tâm hiểu đạo nên bình
thản nói với mọi người: “Các bạn thân mến, thôi cũng đừng than thở làm gì, cái
đến cái đi với tôi, tôi đều thầm cảm tạ hết, cứ đợi đó đi rồi sẽ thấy”.
Vài
hôm sau con ngựa đó trở về, còn dẫn thêm một con ngựa hoang nữa theo, vậy là
được thêm con ngựa thứ hai. Mấy người hàng xóm thấy vậy đến chia vui. Lúc trước
thì chia buồn, giờ là chia vui, mừng ông có thêm con ngựa nữa. Nhưng ông vẫn
bình thường quay bánh xe như mỗi ngày, và nói: “Tôi cũng hết lòng cảm tạ sự
việc này, nhưng đâu biết được. Thôi thì hãy đợi! Rồi sẽ thấy nữa chứ tôi không
vội mừng”. Khi mất ông không vội buồn, lúc được cũng không vội mừng, biết sống
tùy duyên như vậy là đã bớt khổ rồi.
Vài
tuần sau, đứa con trai thấy có thêm con ngựa nữa, mừng nên leo lên cỡi. Nào ngờ
nó là ngựa hoang chưa thuần nên nhảy loạn xạ làm anh té gãy chân. Lúc này hàng
xóm mới đến chia buồn an ủi: “Mới đầu tưởng đâu là may, ngờ đâu nó làm con ông
gãy chân, lại là đứa con duy nhất nên phải cực khổ lo cho con nữa”. Ông vẫn
bình thản, nói: “Cảm tạ đức Quán Thế Âm. Dù sao con tôi vẫn còn ở bên tôi”.
Ông
là cư sĩ mà hiểu lý vô thường như vậy nên đâu có buồn, nếu là chúng ta mà gặp
trường hợp giống như ông lão chắc buồn lắm! Nhưng ông vẫn bình thản cảm tạ
Bồ-tát Quán Thế Âm, vì đứa con này còn ở gần bên ông, chưa chết là vẫn còn may
mắn. Chúng ta nhìn sự việc sáng suốt một chút thì mọi việc sẽ đổi thay.
Không
lâu, có giặc xâm lăng đất nước, lệnh vua ban xuống bắt thanh niên đi chiến đấu
ở biên thùy. Những người trai tráng trong làng đều vào quân ngũ, đứa con trai
ông nhờ gãy chân nên được miễn. Hàng xóm lại đến chia vui. Ông hát một bài kệ
tặng cho đứa con về đạo lý này, đây cũng là bài kệ cho chúng ta học luôn.
Cuộc đời mãi quay nhanh,
Lên xuống như bánh xe nước.
Thân này đã hiện hữu bao lần, quay
tròn vô tận,
Thân này đã lấy hàng ngàn dạng hình khác
nhau,
Mỗi vạn hình lại hủy hoại, lại hình
thành
Như đất sét ướt thành hình trên
bánh xe người thợ gốm.
Tức
là cuộc đời cứ quay nhanh như bánh xe nước, quay đều quay đều như vậy. Thân này
đã hiện hữu nơi đây nhiều vô tận, không biết bao nhiêu lần chứ không phải lần
này. Nghĩa là trong cuộc luân hồi thân này sanh rồi diệt, sanh rồi diệt đến hôm
nay là đã vô số lần rồi, giống như bánh xe, quay đều như vậy.
Cho
nên, muôn vạn hình bị hủy hoại lại hình thành, chết rồi lại sanh như đất sét
ướt làm thành bánh xe của người thợ gốm.
“Cái thấp sẽ lên cao, cái cao sẽ
xuống thấp.
Rồi một ngày, cứ đợi đi
Cái tối tăm sẽ sáng tỏ, người lắm
của sẽ mất gia sản, mọi hình thái sẽ đổi thay”
Sự
đời vô thường là như vậy đó, không có đứng yên một chỗ. Thấp cao, tối sáng luôn
thay đổi với nhau.
Nó
không tối tăm mãi, cũng như đêm rồi sẽ sáng, và người lắm của có lúc sẽ mất gia
sản. Nhiều lúc lắm của bị tai nạn nào đó, như hỏa hoạn hay nước lụt v.v... rồi
cũng mất, tức là mọi hình thái sẽ đổi thay và đổi thay v.v...
“Trong trò nhảy múa vô tận của hai
mặt nhị nguyên”.
Đây là cái trò chơi tương đối mà
ông gọi là nhị nguyên.
“Con ơi, nếu con là một đứa trẻ đặc
biệt
Người ta sẽ khám phá ra con thuộc
một dòng tái sanh
Và cho con vào tu viện với các
Lạt-ma
Nếu con khôn ngoan và ăn nói trôi
chảy
Người ta sẽ cho con làm việc văn
phòng
Và cột mình sau một cái bàn viết.
Mỗi con ngựa tặng cho con một đống
chuyện phải làm,
Mỗi giàu sang chấm dứt bằng sự
tranh chấp”.
Mỗi
con ngựa tặng cho con một số chuyện phải làm tức là phải nuôi ngựa, phải lo cho
nó cái này, cái kia v.v... một số việc. Còn mỗi giàu sang thì chấm dứt bằng sự
tranh chấp. Giàu sang thì luôn tranh chấp với nhau.
“Ai biết được, ngày mai nghiệp nào
sẽ ào tới.
Ngày hôm nay gieo gì, một kiếp nào
nó sẽ chín,
Sẽ gặt trọn vẹn, đó là điều chắc
chắn.
Vì thế, hãy tốt với mọi điều, vô
tâm không phán đoán,
Không tham cầu điều xấu ác,
Tất cả thêm hay bớt, được hay thua,
đều chỉ là ảo ảnh”.
Ngày
mai này việc nào sẽ tới với mình chưa biết được. Hôm nay, mình gieo cái gì thì
một kiếp nào đó nó sẽ chín, quả đó mình sẽ hưởng. Nay gieo nhân tốt lúc nào quả
chín mình sẽ hưởng quả lành, nay gieo nhân xấu quả chín mình cũng sẽ hưởng quả
đó; chưa biết chắc được thời gian nhưng rồi sẽ gặt hái đó là điều chắc chắn.
Nên
ông khuyên ngay đây hãy sống tốt với mọi điều. Muốn hưởng quả ngọt thì phải
trồng cây ngọt, chứ trồng cây chua mà đòi hưởng quả ngọt thì đâu có. Tất cả
thêm hay bớt, được hay thua đều chỉ là ảo ảnh, không phải bận tâm nhiều.
“Đừng hy vọng cũng đừng sợ hãi con
ơi!
Đừng mong cầu và vì thế cũng chẳng
thất vọng”.
Không mong cầu thì đâu có thất vọng.
Sở dĩ có thất vọng là do mong cầu nhiều quá, mong cầu càng nhiều thì thất vọng
càng lắm. Ít mong cầu thì ít thất vọng.
“Chấp nhận tất cả, nó đến hay nó đi
Và sống thuận theo lẽ trời lồng
lộng.
Hãy thật giản dị, chẳng lo âu
Và sống thuận theo Phật tánh đang ở
trong con,
Và yên nghỉ trong niềm vui của tự
tính.
Con có thể bắn bầu trời bằng bao nhiêu mũi
tên,
Bao nhiêu cũng được con à!
Nhưng chúng sẽ rơi trở lại xuống
đất tất cả”.
Tức
là mình bắn bao nhiêu mũi tên lên trời nó cũng sẽ rơi xuống. Ông khuyên nên
chấp nhận tất cả. Nó đến hay nó đi đều bình thản không chối bỏ, sống thuận theo
nhân quả. Bởi vì mình biết rõ mọi việc đều không phải tự nhiên đều có nhân có
quả, nhân quả đến thì cứ tùy thuận theo rồi nó sẽ qua. Ông khuyên hãy sống thật
giản dị chẳng lo âu, khéo thuận theo Phật tánh đang ở trong ta, sống trong niềm
vui của tự tánh.
Vậy,
Phật tử chúng ta đã rõ thế gian là vô thường luôn biến đổi, thì phải khéo sống
tùy duyên, thuận theo Phật tánh trong chính mình, tức là tâm giác ngộ, tâm sáng
suốt thì sẽ bớt khổ.
Rõ
ràng cuộc đời là vô thường, luôn luôn biến đổi, tất cả mọi thứ trên đời này chỉ
là tương đối, không hề có cái hoàn toàn tuyệt đối. Nhưng người ta ai cũng luôn
muốn mọi việc hoàn hảo, muốn cái gì cũng luôn trọn vẹn. Vì muốn mà không được
nên khổ. Hiểu vậy rồi chúng ta biết sống tùy duyên thì sẽ bớt khổ, còn muốn
được hoàn toàn trọn vẹn khi nó không được thì sẽ bất như ý và khổ thôi!
Ví
dụ hai vị huynh đệ chơi thân với nhau, thời gian lâu gặp lại người bạn cũ thì
hết thân với mình rồi. Lúc ấy chúng ta giận tức, nghĩ là đã phản bội thế này
thế kia. Người này nghĩ trong tâm là tình bạn trước sau phải trọn vẹn mà nay
thay đổi nên buồn khổ. Cũng không có gì lạ! Đó là luật tương đối của thế gian.
Tâm con người luôn biến đổi vô thường, tất cả đang sống trong mê lầm, sanh diệt
và luôn đổi thay, khi thấy nó đổi thay thì cũng hiểu là lẽ thường thôi!
Chính
mình cũng vậy, tâm mình cũng vô thường. Khi mới tu nhiệt tình sẵn sàng bỏ hết
để học đạo, nhưng có khi chừng năm, bảy năm thì yếu dần dần! Đó là do tâm vô
thường nên thay đổi. Hiểu rồi khéo thuận theo nhân quả vô thường và sống với
tâm sáng suốt của mình, sống với Phật tánh sẵn có nơi mình. Đó mới là cái không
mất. Nếu ở đời biết khéo sống có đạo lý, khéo biết tùy duyên thì dù ở ngoài đời
nhưng vẫn vui sống có đạo.
Như
ông lão này, không vào chùa nhưng khéo biết ứng dụng Phật pháp vào trong thế
gian nên gặp cảnh nào ông cũng vui hết. Được cũng vui, mất cũng vui, bình thản.
Bài kệ Cư Trần Lạc Đạo của vua Trần Nhân Tông: “Ở đời vui đạo hãy tùy duyên”. Ở
ngay thế gian mà biết đạo và vui với đạo, còn không biết thì sẽ khổ.
Có
câu chuyện về một bà già, là mẹ của một vị thầy Tây Tạng. Bà không hiểu giáo lý
nhiều, nhưng những gì đã hiểu, bà đều ứng dụng được vào cuộc sống và giúp đỡ
những người xung quanh sống như vậy. Khi đó, có một bà hàng xóm chồng vừa chết
nên buồn khổ khóc lóc, sang nhà vị thầy Lạt-ma để tìm chút an ủi nhưng thầy đi
vắng và gặp bà mẹ.
Nhân
đó, bà an ủi rằng: “Con đau khổ như vậy cũng phải nhưng cũng không cần thiết,
vì tất cả cái gì nó có sinh thành thì phải có tan rã, hoại diệt để trở về nguồn
gốc của chúng. Không ai tránh khỏi cái chết, mọi sự đều vô thường, hiểu được
như thế cũng là may mắn lắm”. Ý nói: Vì mọi sự đều vô thường, đã có sanh ra thì
phải có chết, không ai tránh khỏi.
Muốn
nó không chết thì là khổ thôi! Đã không tránh khỏi thì sợ cũng không được, biết
chắc như vậy, thì tùy duyên!
Lúc
đó, người đàn bà cũng chưa hết buồn nên bà an ủi thêm: “Thôi khóc thì cứ khóc,
cứ bứt tóc đi! Sau đó, con phải biết nghĩ lại và bớt buồn, đừng quên cái tâm
trạng buồn khổ này nó cũng vô thường, nó không có thực thể, như mây như gió và
nó cũng vơi đi như mọi thứ trên đời này. Ta là một bà già, đã từng buồn từng
khổ, từng thấy nhiều người thân đến rồi đi, nên lời khuyên của ta cho con là:
đừng mang vào lòng bất cứ cái gì cả”.
Bà
khuyên rằng con buồn con khổ nhưng mà con cũng phải nghĩ lại để bớt buồn. Đúng
là bà chưa phải là bậc thầy nhưng mà những lời nói của bà đúng là bậc thầy. Bà
nói rằng cái tâm trạng buồn khổ của con cũng vô thường, có gì đâu! Buồn cách
mấy đi nữa thì cũng chừng năm ba tháng, có buồn trên một năm đi nữa cũng phải
bớt buồn. Có ai buồn hoài suốt đời không?
Tâm
trạng cũng là vô thường, do chúng ta cố chấp nên thấy khổ. Nên bà nói nỗi buồn
cũng như mây như gió, có lúc nó cũng vơi đi, khỏi phải lo nhiều. Rồi bà chứng
minh cụ thể là ngay chính như bà, cũng đã từng mất cha, mất mẹ, mất người thân,
gặp phải những cảnh đó cũng đã buồn cũng đã khổ rồi, nhưng chúng đến rồi chúng
cũng đi.
Vì
vậy, lời khuyên tóm tắt của bà đúng là điều chúng ta cần phải học: “Đừng mang
vào lòng bất cứ cái gì” thì nhẹ nhàng, còn ôm vào lòng càng nhiều thì càng khổ.
Không nên ôm chặt vào nhiều vì nó đến rồi nó sẽ đi, biết vậy thì nhẹ nhàng lắm.
Còn cố chấp thì sẽ khổ, đơn giản. Ai khéo ứng dụng sống được như vậy, thì đời
mình là sẽ bớt khổ rất nhiều. Bao nhiêu đó có thể tu hết cuộc đời này cũng
tương đối đủ rồi: “Đừng đem vào lòng bất cứ gì hết thì đâu có phiền não”. Kiểm
lại xem có đúng vậy không?
Sở
dĩ có phiền não là tại đem vào lòng. Người ta mới nói hơi động một chút là đem
vào lòng rồi phiền, còn sống với nghĩa này, người ta có nói nặng cũng không
phiền não.
Có
câu chuyện vui trong nhà thiền rất có ý nghĩa: Hai huynh đệ trong thiền viện
đang đi trên đoạn đường, trời vừa mưa xong nên đường lầy lội, phải lội qua một
con suối cạn. Ngay lúc đó có một cô gái trẻ khoác bộ kimono rất đẹp phải đi
ngang qua suối. Nhưng mặc kiểu này thì làm sao đi qua suối?
Thầy
sư huynh thấy vậy phát tâm từ bi: “Này cô bé! Lại đây ta đưa qua cho”. Nói rồi
sư huynh bồng cô gái qua bên kia suối đặt lên bờ, xong đi tiếp về chùa. Người
sư đệ thấy cảnh đó nên khó chịu. Từ đó, trên đường về sư đệ không vui, không
khí nặng nề. Gần đến chùa, như chịu hết nổi thầy mới lên tiếng: “Hôm nay, huynh
làm kỳ quá!”. Sư huynh hỏi: “Kỳ là sao?”. Sư đệ: “Người tu hành không được đụng
nữ nhân mà sao huynh bồng cô gái kia qua suối vậy?”. Người sư huynh nói: “Ta
đưa cô gái qua bờ suối đặt xuống đó rồi, còn sư đệ lại bồng về tới chùa làm gì
?”.
Đó
là câu chuyện nhà thiền, người sư huynh làm một cách vô tâm, còn ông sư đệ thì
đưa vào lòng nên bực bội không vui. Tuy là câu chuyện vui nhưng mà chứa đầy đạo
lý. Nhắc nhở người học đạo, học cái hạnh xả đó, để tâm luôn rỗng lặng, không
vướng mắc.
Ví
dụ như khi Phật tử ra chợ hoặc đi vô xưởng làm có ai đó nói cái gì hơi lỡ lời,
xúc phạm đến mình thì mình buồn chút thôi. Ở đây không ai là thánh hết nên chỉ
buồn một chút rồi đặt ở đó luôn, đi cho khỏe. Buồn chút trong chợ, trong sở rồi
về nhà nhẹ nhàng. Còn không như vậy thì ôm về nhà, ôm vào trong phòng ngủ, ôm
vào trên gối ngủ không được luôn thì khổ. Hiểu được ý nghĩa đó thì chúng ta
sống rất nhẹ nhàng.
Nếu
hiểu mọi sự vô thường khéo sống tùy duyên thì đó là thuốc hay cứu khổ thế gian.
Nên người Phật tử học đạo cũng giống như người bệnh, còn Phật thuyết pháp như
là thuốc. Người bệnh muốn hết bệnh thì phải uống thuốc. Chứ cho thuốc mà không
uống, ngồi đó đọc công thức thuốc này, thuốc kia hay cũng không hết bệnh.
Dù
cho học giáo lý của Phật nhiều, nghe vô thường cũng đầy tai nhưng gặp vô thường
đến cũng ôm vào. Cho nên, học Phật là học uống thuốc, học giáo pháp rồi thì
phải tiêu hóa giáo pháp, mới có lợi ích thiết thực.
III. QUÍ TIẾC THỜI GIAN
Hiểu
rõ ý nghĩa và ứng dụng lời Phật dạy về lý vô thường vào cuộc sống, thấy rõ là
học vô thường không phải để chúng ta chán đời, bi quan không muốn làm gì hết,
nhiều người học đạo rồi hiểu lầm, nghi ngờ như vậy.
Trước
đây, cũng có nhiều người hỏi đạo Phật nói cái gì cũng vô thường, khiến mọi
người chán đời thì sao? Vì biết rõ cái gì cũng vô thường thì đâu cần làm việc
cho tốn công. Nghĩ như vậy rồi chán đời, yếu đuối, đó là hiểu lầm.
Phật
chỉ cho biết vô thường có nghĩa là mọi việc qua rồi thì không thể kéo lại, nên
thời gian hiện có ở đây rất là quí báu, phải trân trọng. Tức là không thể để
qua suông, phải sống cho thật đúng ý nghĩa, biết quí hiện tại. Không thể nói vô
thường thì không cần làm gì hết, rồi bỏ thời gian này qua suông, là phí cuộc đời.
Cái duyên lành chúng ta đang có không dễ gì gặp lần thứ hai. Thế thì phải biết
trân trọng, phải khéo phát triển không nên do dự.
Hôm
nay, nhờ có duyên lành được gần chùa học Phật pháp, chúng ta phải phát triển
căn lành để đời sau tăng gấp rưỡi, gấp hai. Lỡ sau này sanh vào các loài khác
thì sao? Đó là hiểu được ý nghĩa vô thường, không để duyên lành này trôi qua,
rồi sau tìm lại không có. Rõ ràng người hiểu được ý nghĩa đó thì đời sống tích
cực thêm chứ không tiêu cực.
Truyện
cổ Ấn Độ, có một người mua miếng đất của người láng giềng, lại mua nhằm ngày
chót của thời hoàng kim chuyển qua thời hắc ám. Sau khi mua xong, người này đào
được cái hũ vàng trong miếng đất mới mua. Ông này có tâm tốt vội vàng đem trả
lại cho người chủ. Ông nói: “Tôi mua đất của anh chứ không mua vàng, nên bây
giờ tôi đem vàng trả cho anh”.
Người
kia nói: “Tôi cũng mừng cho anh, khi bán đất là bán tất cả, tôi đâu nghĩ có
vàng dưới đất. Bán là bán hết. Vậy đây là cái duyên may của anh, anh có quyền
nhận”. Hai người cứ nhường qua nhường lại hoài, vì đây còn thời đại hoàng kim.
Nhưng bây giờ đã sắp chuyển qua thời hắc ám, nên cả hai nói: “Thôi tối rồi để
mai tính sau”. Ngờ đâu, tối mỗi người nằm suy nghĩ rồi thấy tiếc. Sáng hôm sau,
ông mua đất nói: “Tôi về nghĩ lại rồi, anh nói đúng. Tôi đã mua đất thì ở đưới
đất là của tôi, thôi tôi nhận”. Người bán đất nói: “Không phải vậy! Tối này tôi
cũng nghĩ kỹ, đúng như lời anh nói hôm qua, anh chỉ mua đất, còn vàng là của
tôi, thôi bây giờ tôi nhận vàng”.
Hai
bên cãi nhau, cuối cùng đưa ra tòa thành thù địch. Mới thấy sự vô thường của
tâm tánh con người. Hôm qua quá đẹp, quá tốt, sáng hôm sau chuyển rồi.
Như
thế, chúng ta thấy từ thân tâm đến hoàn cảnh bên ngoài đều biến đổi vô thường,
nên gặp thời hoàng kim phải chộp lấy cơ hội làm ngay, gặp việc lành làm mau vì
nếu không làm sẽ đổi ý.
Trong
thời Phật cũng có câu chuyện: Hai vợ chồng anh đó rất nghèo chỉ có miếng vải
khoác thân ngoài thôi. Hàng ngày, hai người phải thay nhau đi xin. Hễ người vợ
khoác vải đi thì người chồng ở nhà, về đổi lại. Một hôm, người chồng gặp đệ tử
Phật và phát tâm nghe pháp, nhờ duyên lành mới cảm được và muốn phát tâm cúng
dường, nhưng nghèo quá đâu có gì để cúng nên về bàn với vợ: “Chắc kiếp trước vợ
chồng mình đã tạo nghiệp xấu gì nên đời nay nghèo đói khổ sở. Thôi, mình chỉ có
miếng vải này, nên phát tâm cúng dường tạo công đức, để đời sau không còn khổ
nữa”.
Cô
vợ nói: “Chúng ta chỉ có miếng vải này mà cúng dường làm sao mai đi xin ăn
đây?”. Anh chồng nói: “Cúng dường là có phước thôi”. Bàn qua bàn lại, nhờ tâm
mạnh mẽ cuối cùng cả hai quyết định cúng dường.
Lúc
đó, có vị Tỳ-kheo đi khất thực ngang qua nhà, người chồng muốn cúng dường nên
bò lại gần cửa sổ dâng miếng vải cho vị Tỳ-kheo đó. Dâng lên với cả lòng thành
để cúng dường. Cúng dường xong, anh mới la lên: “Tôi thắng rồi! Tôi thắng
rồi!”.
Đúng
là anh đã thắng, thắng tâm niệm nghèo thiếu, ích kỷ của mình. Sau đó vị Tỳ-kheo
này nghe anh la thế liền tìm hiểu và biết gia đình anh thật nghèo khổ nhưng tâm
đạo mạnh mẽ đáng quí nên về thuật lại với Phật. Các vị Tỳ-kheo, nhà vua cùng
nhiều vị thí chủ có mặt tại tinh xá nghe được đều cảm động. Nhà vua sai quân
lính đem quần áo, vàng bạc đến tặng cho hai vợ chồng. Sau đó, hai vợ chồng cùng
đến nghe Phật thuyết pháp và cùng chuyển hóa đời sống của họ trở nên tốt đẹp.
Đó
là nhân quả hiện tiền. Khi gặp điều thiện, điều tốt thì phải chộp lấy thời cơ
làm liền, nếu lúc đó mà đợi đến ngày hôm sau chắc khó cúng dường. Đây là điểm
chúng ta cần học và ứng dụng vào cuộc sống.
Mỗi
vị phải nhớ tất cả thế gian là vô thường, ngay cả thân và tâm của chúng ta cũng
vô thường, đổi thay, không dừng một chỗ, cho nên gặp duyên lành tốt thì phải
làm liền, không thì, duyên xấu ác sẽ dẫn đi. Chính trong kinh có dạy:
“Hãy
gấp rút làm việc thiện, hãy chế ngự điều dữ trong tâm, ai chậm tạo việc lành,
sẽ ưa thích làm điều dữ” (Pháp Cú 116). Đức Phật dạy chúng ta như thế. Tức là
mình chậm làm điều lành một chút thì điều dữ chen vào, nên phải chộp lấy thời
cơ làm lành ngay thì sẽ bớt điều dữ. Hiểu vô thường rồi thì cuộc sống không
tiêu cực, lại rất tích cực và lúc nào cũng phải sẵn sàng làm các việc lành
trong khả năng.
Có
một câu chuyện của vị tổ của Tông Tịnh Độ là ngài Thân Loan. Ngài là bậc tái
sanh có chủng tử Phật pháp sâu dày. Do đời trước có tu nên khi sanh ra liền
nhớ. Khi lên chín tuổi đến lễ hòa thượng Từ Trấn xin xuất gia.
Hòa
Thượng hỏi: “Con còn nhỏ tuổi sao lại muốn xuất gia?”.
Ngài
Thân Loan thưa: “Con còn nhỏ nhưng cha mẹ mất sớm, con không hiểu vì sao người
ta nhất định phải chết, vì sao con lại phải xa lìa cha mẹ? Vì muốn tìm hiểu đạo
lý này nên con xin xuất gia”.
Chúng
ta thấy nhỏ tuổi mà trả lời thật hay? Đây là hảo tâm xuất gia đó.
Hòa
thượng Từ Trấn bảo: “À tốt! Ta đã hiểu. Giờ Ta nhận con làm đệ tử nhưng trời
sắp tối, thôi để sáng mai ta cạo tóc cho con”.
Ngài
Thân Loan nghe vậy không chịu, thưa: “Bạch Thầy! Thầy bảo là sáng mai mới cạo
tóc cho con nhưng tuổi con còn nhỏ, con không bảo đảm tâm xuất gia của con còn
tới ngày mai không nữa; mà tuổi của Thầy lại cao, Thầy cũng không đảm bảo sáng
mai Thầy có thể thức dậy để xuất gia cho con, nên xin Thầy xuất gia cho con
ngay bây giờ”.
Ngài
Từ Trấn nghe xong vỗ tay cười, rất hoan hỷ: “Đúng như vậy! Lời của con nói
không sai, thôi bây giờ Ta sẽ cạo tóc cho con ngay.” Sau đó, Ngài tu và trở
thành vị tổ của Tông Tịnh Độ.
Ngài
Thân Loan đời trước cũng tu nên chủng tử sâu khi sanh ra nhớ lại sớm và hiểu,
thấy đúng được lẽ vô thường. Mới chín tuổi mà Ngài biết nói thế, còn chúng ta
biết nói vậy chưa?
Tuổi
còn nhỏ mà Ngài quyết tâm xuất gia mạnh, lại còn nói là không biết có giữ được
tới sáng mai không nên xin Thầy xuất gia ngay đi. Thứ hai là Thầy tuổi cũng đã
cao, không biết có sống nổi tới ngày mai không? Rõ ràng đúng như vậy. Đó là lẽ
vô thường.
Trước
kia, có những vị thầy Tây Tạng buổi tối trước khi đi ngủ đều lau rửa sạch sẽ
bình trà, tách trà, gói lại cẩn thận, bởi vì ngày mai sau khi ngủ dậy không
chắc là sẽ dùng tách trà đó nữa. Nên các vị làm trước như thế xem như không
nghĩ tới ngày mai. Hiểu vô thường đến như vậy, nên các ngài tu mau đắc đạo.
Nếu
chúng ta được như các ngài thì chắc cũng tu mau đắc đạo, cũng bớt phiền não
nữa. Mỗi khi có ai làm chúng ta phiền não thì nghĩ sao? À! chết tới nơi mà
phiền não cái gì? Hít hơi thở vô không biết có thở ra không nữa thì còn gì mà
phiền não. Nhờ vậy sẽ bớt phiền não. Còn nghĩ mình sống tới bảy tám chục năm
thì có thời gian để phiền não.
Đối
với nghĩa vô thường mà hiểu kỹ, hiểu sâu rồi chúng ta thấy an vui, giảm được
phiền não rất nhiều. Mới thấy Phật pháp thiết thực, có giá trị và cao quí; bằng
không khi nghe nói Phật pháp là Pháp bảo cao quí mà lâu nay không thấy nó “Bảo”
ở chỗ nào? Khi hiểu kỹ, ứng dụng được vào cuộc sống thì niềm tin càng sâu, vững
thêm.
IV. NGHĨA SÂU CỦA VÔ THƯỜNG
Từ
trước đến đây chỉ nói về mặt vô thường giả tạm, nếu chúng ta khéo tiến thêm
bước nữa tỏ ngộ được lẽ thật trong cái vô thường. Nói vô thường để giúp người
tỏ ngộ được lẽ thật để vươn lên, để sống được với cái chân thật, chứ không phải
nói vô thường rồi chỉ thấy vô thường tạm bợ, đó là ý nghĩa sâu của vô thường.
Lý
vô thường không phải làm cho con người bi quan, khi rõ tất cả là vô thường thì
chúng ta không mê lầm, sống trở lại nguồn gốc chân thật mà chúng ta đã bỏ quên.
Tức là Phật tánh, là bản tâm, là lẽ thật nơi chính mình.
Nói
tất cả chúng sanh đều có Phật tánh mà Phật tánh đó vô thường không chạm tới
được. Chúng sanh bị vô thường chi phối nhưng cũng không mất Phật tánh, nên
người khéo tu, giác ngộ được thì sẽ chuyển chúng sanh thành Phật.
Đức
Phật, Bồ-tát, các vị Thánh Hiền, cũng từ chúng sanh giác ngộ mà thành. Khi còn
mê thì là chúng sanh, khi giác ngộ rồi thì chuyển thành Phật. Phật cũng từ
chúng sanh tiến lên, Bồ-tát, các vị A-la-hán, các vị Thánh Hiền cũng vậy.
Vậy
thì trong chúng sanh có cái phi chúng sanh, nên nói vô thường để chúng ta không
lầm cái giả này, khéo sống trở về với chân lý giác ngộ đó.
Bài
kệ dạy chúng của thiền sư Mãn Giác: “Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân đáo bách hoa
khai, Sự trục nhãn tiền quá, Lão tùng đầu thượng lai. Mạc vị xuân tàn hoa lạc
tận, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” là nói lên điều này: Trong cái vô thường có cái chân thật.
Tức
là Xuân đi thì trăm hoa rơi rụng, xuân đến trăm hoa đua nở, sự đời cứ trôi qua
trước mắt như nước trôi, nước cứ trôi, trôi qua hết. Lâu lâu nhìn lại thì cái
già nó đến trên đầu rồi, tóc đã bạc rồi.
Bài
kệ nhắc rằng sự đời vô thường, từ hoàn cảnh bên ngoài cho đến bản thân đều bị
vô thường biến đổi. Nhưng tại sao không nói xuân đến trước mà lại nói xuân đi
trước? Thường người ta nói đến rồi mới đi, có đến mới có đi, xuân đến hoa nở,
xuân đi hoa tàn, có nở có tàn. Ở đây, Sư nói ngược lại: “Xuân đi thì trăm hoa
rụng, xuân đến thì trăm hoa nở”.
Vì
đây là bài kệ thị chúng của Sư lúc sắp tịch, nhắc nhở để đại chúng bớt buồn.
Sắp tịch tức là sắp đi, Sư nói rằng thân này cũng vậy. Có mặt trên đời này đến
lúc hết duyên thì đi, giống như xuân đi thì hoa rụng tàn. Tuy vậy, nhưng gặp
duyên đến thì hoa nở, tức là có rụng có tàn có nở.
Đó
là tướng vô thường của thế gian. Nhưng trong đó “Chớ bảo xuân tàn hoa rụng
hết”, nghĩa là trong mùa xuân hoa tàn rụng đó vẫn còn: “Đêm qua, trước sân còn một cành mai”. Nghĩa là sao? Là cũng còn có
mùa xuân.
Sư
dùng chữ rất tế nhị. Sư không nói là còn một chùm mai mà nói là một cành mai.
Vì nếu là một chùm mai thì nó sẽ rụng nữa, còn cành mai thì nó vẫn còn đó, tới
mùa xuân đến nó lại nở nữa, hoa có rụng có tàn nhưng cành thì vẫn còn đó. Ở đây
nói rõ cuộc đời là vô thường đổi thay, thân này cũng theo đó mà hủy hoại. Cũng
như Sư có sanh ra rồi cũng có tịch. Nhưng Sư đi đó mà Sư có mất không? Gặp
duyên thì Sư cũng hiện nơi khác. Cũng như cành mai này, tới mùa xuân năm sau
cũng nở nữa, tức là cái này vô thường
biến diệt nhưng trong đó có cái chân thật.
Vậy,
Phật nói vô thường để con người sống trở lại với lẽ thật của chính mình chứ
không phải nói vô thường là vô thường. Hiểu vậy thì thấy ý nghĩa vô thường rất
sâu đâu phải chỉ dừng ở nghĩa vô thường thôi. Qua đó, chúng ta mới thấy Phật
pháp sâu xa, không thể nghĩ bàn.
Phật
dạy trong kinh Đại thừa thì thân này gọi là huyễn thân, thân sanh diệt giả có.
Nhưng còn có pháp thân, mà pháp thân thì không sanh diệt. Nên phẩm Như Lai Thọ
Lượng trong kinh Pháp Hoa, Phật bảo là Ngài thành Phật bao lâu rồi? Ngài nói từ
khi ta thành Phật đến nay số kiếp vô lượng vô biên, nhiều như cát bụi không thể
kể được.
Ngài
ví dụ như đem nghiền cả cái khối tam thiên đại thiên thế giới này thành bụi,
rồi đi qua trăm ngàn thế giới để rơi một hạt bụi, rơi hết các số bụi đó rồi mới
cộng lại hết số thế giới đã đi qua có để rơi bụi và không rơi bụi, đem nghiền
hết thành bụi nữa, rồi mỗi hạt bụi là
một kiếp.
Ngài
nói từ khi Ngài thành Phật đến nay còn lâu xa hơn số bụi đó nữa. Vậy tuổi thọ
Ngài bao nhiêu? Thường chúng ta hiểu tuổi thọ của Phật là tám mươi năm rồi nhập
Niết-bàn. Nếu hiểu theo như Phật nói trong kinh thì Phật có nhập Niết-bàn
không? Vậy Phật đâu có nhập Niết-bàn theo nghĩa thường hiểu là diệt.
Vì
mê nên chúng ta thấy Phật nhập Niết-bàn, nếu giác ngộ chúng ta thấy Phật không
có nhập Niết-bàn. Bởi tuổi thọ của Phật đã nói như trên, nên đức Phật đã nhập
Niết-bàn là Phật ứng thân, vì là ứng thân nên có sanh ra rồi nhập Niết-bàn. Còn
đức Phật kia vẫn mãi còn hiện hữu.
Nếu
hiểu được như vậy thì lúc nào cũng thấy Phật ra đời với chúng ta chứ không nhập
Niết-bàn. Mỗi người ai cũng có Phật tánh nhưng Phật trong chính mình cũng nhập
Niết-bàn không biết bao nhiêu kiếp rồi, bây giờ phải làm sao cho Phật ra đời
trở lại đây?
Hãy
giác ngộ trở lại thì thấy Phật ra đời thôi! Nếu thấy Phật ra đời thì ngay đây
cũng vượt qua cả vô lượng kiếp đã nhập Niết-bàn rồi đó. Mới thấy được lẽ thật,
vòng luân hồi sanh tử đúng như là giấc mộng. Chúng ta tưởng Phật nhập Niết-bàn
nhưng Phật vẫn còn với mình. Hiểu như vậy mới thấy được lý sâu trong lẽ vô
thường, chứ không phải nói vô thường chỉ dừng trên cái vô thường thôi.
Như
vậy, hiểu sâu lý này là đủ cho chúng ta tu cả đời. Có lẽ, từ đời này qua đời
sau vẫn chưa xong nữa. Nhưng vì học đạo quen rồi xem lờn. Nghe nói đến lý vô
thường là chán nghe, vì đã học nhiều, muốn nghe cái gì cao siêu hơn.
Nếu
như hiểu đúng, hiểu sâu nghĩa vô thường, biết ứng dụng tu tập thì tu suốt đời
không hết, cũng có thể tu tiến thành Phật, không phải chuyện thường.
V. TÓM KẾT
Hiểu
rõ thế gian là vô thường để chúng ta bớt vướng mắc, để phát tâm Bồ-đề, để không
trôi theo mê lầm và tích cực sống vươn lên chứ không tiêu cực buông xuôi theo
nó. Phải luôn chộp lấy thời cơ hoàng kim để tiến lên.
Vậy,
tất cả thế gian là vô thường không có gì bền chắc, không có gì để nắm bắt, chấp
chặt, thấy được như vậy thì cuộc sống chúng ta cởi mở và gần với nhau hơn. Biết
cuộc đời vô thường thì bớt làm khổ nhau.
Tất
cả cùng sống chung trong cuộc vô thường, nên đem an vui cho nhau hơn là đem đau
khổ cho nhau. Là cuộc sống vui hơn, và bình tĩnh với sự đời vô thường. Giống
như bà già khuyên người đàn bà kia, nên nhớ tất cả là vô thường rồi cái tâm
buồn khổ nó cũng vô thường luôn. Nên mỗi lần buồn thì nhớ cái tâm cũng vô
thường, nó không có dừng.
Như
vậy, khéo biết ứng dụng để luôn tiến trên đường học đạo, để bớt khổ thì đó là
uống thuốc. Một lý vô thường này quán kỹ, quán sâu là có thể đắc đạo. Ngày xưa
thời Phật có những vị quán vô thường mà chứng A-la-hán. Quán thân mình vô
thường thì cũng thấy là vô ngã, không có ngã thì ai buồn phiền, ai phiền não,
ai sanh tử, phá được cái mê đó là chứng A-la-hán.
Có
vị Tỳ-kheo vào buổi sáng ngồi gần bên bờ ao thấy hoa sen nở đầy ao tươi đẹp,
tới trưa có một nhóm cô gái lội xuống hái hoa sen. Do hái bừa bãi, hái vội nên
làm bầm dập các hoa sen còn lại, các lá sen xung quanh. Sau đó, thầy nhìn lại
thì thấy ao sen điêu tàn. Buổi sáng thấy ao sen tươi đẹp, ánh mặt trời rọi
xuống rất là nên thơ, nhưng trưa thì trở nên điêu tàn.
Thầy
quán kỹ mọi sự mọi việc trong cuộc đời thật vô thường, và chứng A-la-hán. Ở
đây, các Phật tử nên khéo quán kỹ vô thường và ứng dụng vào cuộc sống và sống
được với ý nghĩa đó, đừng chỉ hiểu vô thường qua loa trên chữ nghĩa.
Qua
những điều trình bày trên chắc quý Phật tử cũng hiểu rồi, nhưng cái hiểu này có
phải là cái hiểu của mình chưa hay còn là cái hiểu của thầy? Phải làm sao
chuyển nó thành cái hiểu của mình.
Để
tóm kết bài giảng này cho tất cả luôn ghi nhớ, có một bậc thầy Tây Tạng dạy
rằng: “Bạn có bao giờ thật sự hiểu và thật chứng lý vô thường hay chưa? Bạn đã
thâm nhập nó trong từng ý tưởng, từng hơi thở và từng động tác đến nỗi cuộc đời
của bạn nhờ vậy mà được đổi mới hay chưa?”.
Tức
là hiểu và thực chứng lý vô thường trong từng hơi thở, từng bước đi, từng lời
nói, nhờ vậy mà cuộc đời của mình chuyển đổi, có làm được vậy không? Và hãy tự
hỏi bạn hai câu này, nếu bạn trả lời được thì bạn mới thật sự hiểu vô thường:
-
Câu thứ nhất là: “Tôi có nhớ rằng lúc nào tôi cũng đang chết hay không? Và mọi
người, mọi vật khác cũng đang chết hay không? Bởi vậy, tôi đối xử với mọi chúng
sanh với lòng bi mẫn trong mọi lúc”.
Ngồi
ở đây có nhớ mình đang chết dần hay không? Nhớ mình đang chết, mọi người cũng
đang chết, vậy là đồng cảnh ngộ. Thấy tất cả cùng hoàn cảnh nên có lòng bi mẫn
thương xót với nhau trong mọi lúc.
Nghĩa
là chúng ta đang sống trong vô thường, trong sự biến đổi, đau khổ, thấy người
khác cũng đang sống trong vô thường thì có sự cảm thông nên có lòng bi mẫn
thương xót với nhau trong mọi lúc, có thể trả lời được câu đó chưa?
-
Câu thứ hai là: “Sự hiểu biết về cái chết và vô thường nơi tôi có trở nên bén
nhạy, cấp thiết đến độ là tôi đang dành mọi giây phút còn lại của đời tôi để
theo đuổi sự nghiệp giác ngộ hay không?”.
Nếu
bạn có thể trả lời hai câu hỏi ấy thì thật sự bạn mới hiểu lý vô thường. Ở đây
có ai trả lời cho hai câu hỏi này chưa? Nếu chưa thì phải làm sao? Chỉ chừng đó
thôi mới thấy rõ, phải học lý vô thường suốt đời rồi.
Ngay
bây giờ ngồi đây cũng vậy, hiểu được điều đó thì cuộc sống của chúng ta được
chuyển hóa, đổi mới rất là nhiều, phiền não sẽ bớt. Cho nên đó là thuốc cho tất
cả. Giờ thì mọi người khéo uống thôi!
http://thuongchieu.net/index.php?option=com_content&view=article&id=2633:thegianvothuong&catid=17:ttttp&Itemid=347