Posted
by Chơn Ngọc
Huyền
Ngu - Quảng Tánh
HỎI:
Quan điểm về Nghiệp của Phật giáo có sự khác biệt như thế nào so với quan điểm
Số mệnh của Nho giáo ?
ĐÁP: Đời
sống của con người vốn rất đa dạng, muôn màu và vô cùng sai biệt. Mỗi cá nhân
có một cấu trúc tâm sinh lý và hoàn cảnh, điều kiện sống hoàn toàn khác biệt
nhau.
Cùng là
con người, nhưng có sự bất đồng rõ rệt giữa giàu nghèo, xấu đẹp, khoẻ mạnh và
đau yếu, trường thọ và chết yểu, thành công và thất bại, hạnh phúc và khổ đau…
Để trả lời câu hỏi nhân sinh vĩ đại này, các tôn giáo và triết học đều có những
kiến giải theo quan niệm của riêng mình. Phật giáo giải thích căn nguyên của sự
dị biệt đó bằng thuyết Nghiệp hoàn toàn khác biệt với quan niệm Số mệnh của Nho
giáo.
Số mệnh hay số phận
là quan niệm của các trường phái triết học như Túc mệnh luận, Định mệnh luận và
Thiên mệnh luận của Nho giáo.
Túc mệnh luận cho rằng,
mỗi con người đều có một số mệnh do quá khứ an bài và xếp đặt. “Nhất động nhất
tác giai do tiền định”, mỗi cử chỉ, mỗi động tác đều được quyết định trước ở
quá khứ. Mọi cố gắng hay nỗ lực của con người đều vô ích.
Định mệnh luận có
cùng quan niệm như Túc mệnh luận nhưng cường điệu hơn tính chất bất khả kháng của
số mệnh. Số mệnh là quyết định, không thể thay đổi, phủ nhận hoàn toàn mọi nỗ lực
cá nhân.
Thiên mệnh luận của
Nho giáo quan niệm Thiên mệnh có nhiều nghĩa. Thiên mệnh là Thiên đạo, tức đạo
Trời. Ông Trời quy định cho mỗi cá nhân một số mệnh. Con người không thể cãi lại
mệnh Trời, “ Trời kêu ai người nấy dạ”. Mọi cố gắng của con người không ngoài ý
Trời. Nếu hiểu Thiên mệnh theo cách này thì Thiên mệnh luận gần với Thần ý luận
của các tôn giáo sùng kính Thượng đế. Tuy nhiên, Thiên mệnh hay Thiên đạo còn
được hiểu là luật tắc của tự nhiên (Khổng Tử ), là nguyên lý vận hành và biến
hoá của tự nhiên (Chu Hy), thì quan niệm này không phải Số mệnh luận.
Như vậy,
số mệnh hay số phận dù theo Túc mệnh luận, Định mệnh luận hoặc Thiên mệnh luận
đều có chung tính chất tiêu cực, thụ động, cứng nhắc và triệt tiêu mọi nỗ lực cải
tạo, hướng thiện của con người. Con người đã có một số mệnh, được an bài, định
đoạt ở quá khứ hoặc bị quyết định bởi ý chí của một đấng siêu nhiên. Khi đã an
phận vào số phận, con người xuôi tay cho số phận đẩy đưa, phó mặc cho số mệnh
quyết định.
Phật giáo không chủ trương và không chấp nhận số mệnh. Con người
hiện hữu và tồn tại với các đặc tính khác nhau là kết quả của Nghiệp được tạo
tác bởi chính họ trong hiện tại và quá khứ. “Con người là chủ nhân của Nghiệp,
là kẻ thừa tự Nghiệp…” ( Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt – Trung Bộ III ).
Nghiệp là hành động có tác ý, hay
hành động phát sinh từ tâm được thể hiện qua hành động (Thân nghiệp), ngôn ngữ
(Khẩu nghiệp) và tư duy (Ý nghiệp). Nghiệp lực là sức mạnh của Nghiệp, là động
lực thúc đẩy, dẫn dắt để hình thành một thân phận chúng sanh. Nghiệp do mình tạo
ra rồi trở lại chi phối chính mình.
Nghiệp
có nhiều loại, mỗi loại có một tính chất và công năng khác nhau. Hai loại Nghiệp
chính thường được đề cập là Dẫn nghiệp và Mãn nghiệp.
Dẫn nghiệp là Nghiệp do con người tạo ra trong đời sống hiện tại
hay quá khứ thông qua thân, khẩu và ý hoặc thiện hoặc ác, để rồi chính Nghiệp
này dẫn dắt con người ấy sanh vào một trong sáu nẻo của Lục đạo ( Trời, Người,
A tu la, Súc sanh, Ngạ quỷ và Địa ngục ). Phạm tội Ngũ nghịch thì bị đoạ vào A
tỳ địa ngục hoặc tu tập Thập thiện thì sanh vào cõi Trời hay tu tập Ngũ giới sẽ
sanh vào cõi Người… Tuy nhiên, cùng là người nhưng có người khỏe mạnh, người lại
ốm đau; người đẹp, kẻ xấu; người này sang trọng, người kia lại nghèo hèn vv… tất
cả những sai biệt ấy là quả báo của Mãn nghiệp.
Con người tạo ra
Nghiệp lại không trốn thoát những Nghiệp do mình tạo ra. Nhưng
Nghiệp không phải là Định mệnh hay Số mệnh. Điểm khác nhau cơ bản giữa Nghiệp
và Số mệnh ở chỗ, Nghiệp do chính con người tác tạo, có tính chất duyên sinh, bất
định tính và vô ngã nên Nghiệp có thể chuyển hoá được. Do đó, con người có thể
thay đổi, chuyển hoá Nghiệp báo của chính mình từ xấu thành tốt, từ ác thành
thiện hoặc ngược lại. Năng lực chuyển hoá Mãn nghiệp trở thành tốt hơn hoặc xấu
đi được gọi là Năng tiêu nghiệp. Tác dụng của Năng tiêu nghiệp trong đời sống
hiện tại rất lớn. Một người có tư chất thông minh và cơ thể khỏe mạnh là kết quả
của Mãn nghiệp. Thế nhưng, người ấy không lo học tập, rèn luyện thân thể lại
còn sống buông thả, đắm say tửu sắc, ma tuý. Kết quả từ chỗ khỏe mạnh anh ta trở
nên ốm yếu, tiều tụy; từ chỗ thông minh thành ra ngu đần, thác loạn. Năng tiêu
nghiệp đã làm tiêu hủy Nghiệp tốt của người này.
Ngược lại,
một người với quả báo Mãn nghiệp có cơ thể ốm yếu, tật bệnh nhưng nhờ biết giữ
gìn sức khỏe, luyện tập dưỡng sinh, ăn uống điều độ, làm việc giờ giấc, người
này vẫn khỏe mạnh, chiến thắng bệnh tật, thậm chí còn trường thọ. Bác sỹ Nguyễn
Khắc Viện chỉ có một phần ba lá phổi màvẫn làm việc bình thường, trường thọ (80
tuổi) là một điển hình của Năng tiêu nghiệp theo hướng tích cực.
Đối với
Dẫn nghiệp, một loại Nghiệp có cường độ mạnh trong việc quyết định hướng tái
sanh nhưng vẫn chuyển hoá được. Trong sách Đồng Mông Chỉ Quán, ngài Trí Giả đại
sư có kể chuyện một Sa Di yểu mạng nhưng nhờ cứu sống một đàn kiến nên được
chuyển Nghiệp. Đáng lẽ, vị Sa Di này phải chết trong vòng một tuần lễ lại được
sống an ổn, trường thọ. Năng lực chi phối Dẫn nghiệp là Năng huỷ nghiệp.
Một người
thọ mạng vẫn còn, nghiệp lực của Dẫn nghiệp (Tái sanh nghiệp) vẫn còn nhưng vì
người này trong đời trước hoặc ngay trong đời này đã tạo ra những Nghiệp cực mạnh,
có khả năng tiêu hủy đời sống của họ, khiến họ có thể mất mạng như thường. Đó
là những trường hợp đột tử, bất đắc kỳ tử, tai nạn. Đây không phải là số mệnh,
định mệnh hay tới số, tận số. Phật giáo gọi là Nghiệp, tác động của Năng hủy
nghiệp đã tiêu hủy một Dẫn nghiệp được tạo ra trước đó, chấm dứt một đời sống.
Năng hủy nghiệp trong trường hợp này giống như cơn gió thổi tắt đèn trong khi
đèn vẫn còn dầu và bấc.
Tóm lại,
Nghiệp là một phạm trù triết học lớn trong hệ thống giáo lý Phật giáo không thể
phân tích hết trong mục Hỏi – Đáp này. Nghiệp theo Phật giáo là một cơ chế vận
hành của đời sống được khám phá bởi tuệ giác của Đức Phật chứ không phải một
tín ngưỡng vu vơ, siêu hình và hoàn toàn khác biệt với quan niệm Số mệnh của
Nho giáo.
Nghiệp do con người
tạo ra trong quá khứ và từng phút từng giây trong hiện tại bằng ba con đường
thân, miệng và ý rồi trở lại chi phối chính người ấy.
Nghiệp
tuy có năng lực mạnh mẽ, chi phối và quyết dịnh đời sống của chúng sanh trong
hiện tại và tương lai nhưng Nghiệp không có định tính, vô ngã. Nghiệp
có thể chuyển hoá và thay đổi được thông qua nỗ lực tu tập của cá nhân, chứ
không cứng nhắc, tiêu cực như Số mệnh. Thuyết Nghiệp rất tích cực, khoa học và
công bằng. Nó tôn vinh trách nhiệmvà giá trị con người, thúc đẩy con người hướng
thiện, sống đạo đức, theo lẽ phải.
Thuyết Nghiệp khích lệ con người hành động và tiến bộ, hoàn
toàn vắng mặt bóng dáng tiêu cực, yếm thế. Đó là nét đặc sắc của giáo lý Nghiệp
và là điểm khác biệt cơ bản nhất của quan niệm Nghiệp và Số mệnh.
(Theo Phật pháp bách vấn, tập I)
(thichquangtanh@yahoo.com)
http://www.thichquangtanh.com/2012/05/su-khac-biet-giua-nghiep-va-so-menh.html
http://thuvienphathoc.blogspot.com/2012/07/su-khac-biet-giua-nghiep-va-so-menh.html