Trên bước đường hành trình tâm linh về xứ Ấn thiêng liêng để
chiêm bái Tứ Động Tâm, thông thường những người con Phật nói riêng hay du khách
trên thế giới nói chung sau khi đáp máy bay tại phi trường Delhi, địa điểm viếng
thăm đầu tiên sẽ là thành phố Varanasi. Nơi đây du khách sẽ được chiêm bái
thánh tích Sarnath, khu vườn Lộc Uyển thiêng liêng xinh đẹp, nơi đức Phật chuyển
vận bánh xe Pháp đầu tiên, bắt đầu cuộc hành trình hoằng pháp cứu khổ độ sanh
và viếng thăm dòng sông Hằng thiêng liêng huyền bí. Tiếp đó cuộc hành trình tâm
linh sẽ đưa mọi người viếng thăm chiêm bái thánh tích Bồ-đề-đạo-tràng (nơi đức
Phật thành đạo), thánh tích Kusinagar (nơi đức Phật nhập Niết-bàn) và thánh
tích Lâm-tỳ-ni (nơi đức Phật đản sanh)…
Đó là cuộc hành trình tâm linh thuận theo không gian địa lý.
Nếu thuận theo thời gian của Tứ Động Tâm thì khách hành hương phải đáp máy bay ở
Nepal để chiêm bái thánh tích Lâm-tỳ-ni, sau đó viếng thăm thánh tích Bồ-đề-đạo-tràng,
chiêm bái thánh tích Sarnath, và cuối cùng đảnh lễ thánh tích Kusinagar… cuộc
hành trình như thế sẽ không thuận đường, nên thường vất vả hơn. Trong phạm vi
bài này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thánh tích Sarnath, vườn Lộc Uyển, nơi
Ba ngôi báu được thành lập đầu tiên giữa cuộc đời.
1.Truyền thuyết về thánh tích Sarnath (Lộc Uyển)
Lộc Uyển là tên Hán Việt, Lộc (-) nghĩa là con nai, Uyển (-)
là khu vườn đẹp; như vậy Lộc Uyển có nghĩa là Khu vườn nai xinh đẹp. Danh từ Lộc
Uyển được dịch nghĩa từ tiếng Pāli là Sarnath (vua của loài nai); hay từ
Migadāya (vườn nai). Sở dĩ gọi là Migadāya (vườn nai), vì khu vườn này được vua
xứ Ba-la-nại bảo vệ các loài nai sống tự do trong khu vườn này và không cho dân
chúng giết hại; nhờ thế nơi đây rất yên tịnh, thanh vắng và trở thành nơi cư
trú lý tưởng của các vị ẩn sĩ tiến tu đạo nghiệp. Khi chưa chứng quả vị Vô thượng
Bồ đề, đức Phật và năm anh em Kiều Trần Như cũng từng tu tập khổ hạnh trong khu
rừng này.
Theo kinh tạng Pāli, khu rừng này thường được gọi là chỗ “Chư
thiên đọa xứ” (Isipatana), vì nơi đây có 500 vị Bích Chi Phật nhập diệt giữa hư
không, xác thân tứ đại các Ngài rơi xuống tại nơi này, nên nơi này được gọi là
Isipatana. Vào thế kỉ thứ VII, khi ngài Huyền Trang đến chiêm bái thánh tích
này, Ngài cho biết có một bảo tháp được xây để đánh dấu nơi xác thân của 500 vị
Bích Chi Phật rơi xuống, ngày nay thì bảo tháp này không còn nữa(1).
Danh từ Sarnath (vua của loài nai), xuất phát từ câu chuyện
tiền thân của đức Phật Thích-ca, câu chuyện hàm chứa một tấm lòng đại từ bi của
một con nai đầu đàn anh dũng. Chuyện kể rằng:
Thuở xưa tại xứ Ba-la-nại, trong một khu rừng xinh đẹp, có
hai đàn nai đang sinh sống, mỗi đàn có hơn năm trăm con và được dắt dẫn bởi một
con nai đầu đàn mạnh khỏe và thông minh, lanh lợi. Bất hạnh thay, nhà vua của xứ
này rất thích thịt nai và thường hay đi săn bắn. Một hôm vua cùng tùy tùng đến
khu rừng này săn bắn, phát hiện khu rừng có rất nhiều nai sinh sống, nhà vua rất
vui mừng ra sức đuổi bắt; nhưng đàn nai rất khôn ngoan, chúng chạy luồn lách giữa
những cây rừng, nhà vua không làm sao đuổi bắn được. Trải qua mấy canh giờ ra sức
đuổi theo bắn giết mệt nhọc mà không săn được con nai nào. Nhà vua rất bực mình
sai quân lính bao vây cả khu rừng và dùng lửa để đốt chết hai đàn nai. Biết được
hậu quả kinh khiếp sắp xảy ra cho cả giống nòi và khu rừng, hai con nai đầu đàn
(tiền thân của đức Phật và Đề-bà-đạt-đa) liền chạy ra khỏi khu rừng đi đến trước
mặt nhà vua và thưa rằng: Xin Đại vương đừng đốt khu rừng giết cả loài nai và
những sinh vật trong ấy, chúng tôi xin nguyện mỗi ngày sẽ dâng nạp cho ngài một
con nai; như thế ngày nào ngài cũng có thịt nai tươi để dùng và chúng tôi cũng
được kéo dài mạng sống. Nhà vua thấy nai đầu đàn rất dũng mãnh và xinh đẹp thưa
như thế liền bằng lòng ngay, ra lệnh cho quân lính rút khỏi khu rừng và quyết định
không đốt khu rừng nữa.
Hằng ngày, hai nai đầu đàn lần lượt sắp xếp một con nai để
vào cung nộp mạng cho nhà vua. Một hôm sắp đến lượt một con nai có mang thai đi
nộp mạng, nai mẹ nhìn bụng mà xót xa nghĩ rằng: con mình chưa chào đời mà đã phải
chết theo mình, thương con đau lòng trằn trọc suốt đêm, sáng mai nai mẹ quyết định
đi gặp nai đầu đàn của mình (tiền thân Đề-bà-đạt-đa) xin hoãn lại đợi ngày sanh
xong sẽ đi nộp mạng. Con nai đầu đàn này không những không thông cảm với hoàn cảnh
của nai mẹ mà còn rầy la, quở mắng và buộc nai mẹ phải đi nộp mạng trong ngày
theo thời hạn và không được trì hoãn. Nai mẹ hai dòng lệ chảy dài, cúi đầu vâng
theo, buồn tủi ra đi. Ra đến bìa rừng, nai mẹ gặp nai đầu đàn của đàn nai còn lại
(tiền thân của đức Phật), nai đầu đàn này nhìn thấy nai mẹ mắt lệ tuôn trào, lầm
lũi bước đi. Sau khi hỏi thăm sự tình và nghe nai mẹ trình bày sự việc, nai đầu
đàn cảm thông nổi khổ và tình thương mẫu tử bao la của nai mẹ. Tâm đại từ bi cứu
khổ nạn phát sinh, nai đầu đàn liền nguyện chết thay cho nai mẹ, khiến nó rất
vui mừng, cảm phục nai đầu đàn vô cùng và cúi đầu lạy tạ. Sau khi từ giã đàn
nai thân thương của mình, nai đầu đàn ung dung tiến thẳng về cung thành để nộp
mạng. Khi vào hoàng cung, từ xa nhìn thấy nai đầu đàn, nhà vua rất kinh ngạc và
hỏi rõ mọi sự tình. Khi nghe nai đầu đàn thuật lại, nhà vua rất kính phục và thầm
nghĩ rằng, thân mình là một đấng quân vương mà không có lòng bao dung, đại từ
bi như con nai đầu đàn này. Cảm phục trước tấm lòng đại bi ấy của nai đầu đàn,
nhà vua đã sai người thả nai đầu đàn về, đồng thời tự hứa từ nay sẽ không dùng
thịt nai nữa và ra lệnh cho người bảo vệ khu vườn không cho bất kì ai đến khu rừng
ấy quấy phá đàn nai nữa. Từ thuở đó cho đến ngày nay, khu rừng được mọi người gọi
bằng cái tên thân thiện là Sarnath (vua của loài nai).
2. Lịch sử thăng trầm của thánh tích Sarnath
Lịch sử Sarnath đã được biết đến từ rất xa xưa, thuở đức Phật
Thích-ca còn là vị Bồ-tát hóa thân tu tập trong loài nai nơi khu rừng hoang dã.
Sarnath còn được biết đến qua Kinh tạng, đó là nơi thiêng liêng mà chư Phật
trong quá khứ, hiện tại và tương lai đều chọn nơi đây làm chiếc nôi của Phật
giáo để khai sinh giáo pháp giác ngộ, cứu khổ độ sanh. Thánh tích Sarnath cũng
được biết qua huyền thoại về 500 vị Phật nhập Niết-bàn giữa hư không bỏ lại xác
thân tứ đại ở nơi này với bảo tháp tưởng niệm. Sarnath lại được biết sẽ là nơi
thiêng liêng đón chào đức Phật Di Lặc chuyển pháp luân, thiết lập Long Hoa hội
sau này, vì cũng chính tại thánh địa này, đức Phật Thích-ca đã thọ kí cho Ngài
là sẽ thành Phật hiệu là Từ Thị Như Lai.2
Không những thế, thánh tích Sarnath càng được nổi danh hơn vì
vùng đất này tọa lạc trong một địa danh nổi tiếng nhất của Ấn Độ, đó là vương
thành Banares (Ba-la-nại), thành phố Vanarasi nằm bên cạnh sông Hằng, dòng sông
thiêng liêng và huyền bí nhất của người dân xứ Ấn. Thành phố Vanarasi được mệnh
danh là thành phố tâm linh, là Kinh đô ánh sáng, là trung tâm của tư tưởng và học
thuật cao nhất của Ấn Độ. Hơn thế nữa, thành phố này cũng là trung tâm thương mại,
mà nổi tiếng nhất là mặt hàng tơ lụa. Tơ lụa ở Banares nổi danh cả thế giới và
đã hình thành con đường tơ lụa xuất khẩu tơ lụa đến mọi nơi trên thế giới từ mấy
ngàn năm đến tận bây giờ. Khi hành hương chiêm bái các thánh tích của Phật
giáo, một học giả gốc Việt, sinh sống tại Châu Âu có viếng thăm thành phố này
đã nhận xét rằng: “Trên thế giới có những thành phố cổ như Theben ở Ai-cập,
Ninive hay Babylon ở Ba Tư. Chúng thành hình cả ngàn năm trước công nguyên, thậm
chí 1700 năm như Babylon, kinh đô rực rỡ một thời của miền Trung Á. Thế nhưng về
mặt cổ xưa, các thành phố đó lu mờ trước Varanasi, thành phố xuất hiện khoảng
3000 năm trước công nguyên. Có lẽ Varanasi chỉ thua kinh đô Trường An của Trung
Quốc với số tuổi 6000 năm khả kính. Khoảng năm 900 trước công nguyên, những người
dòng Arya của Ấn Ðộ đến Varanasi, biến nơi đây thành một kinh đô hùng mạnh về
thương mại cũng như tư tưởng học thuật. Và Varanasi phồn vinh tới ngày hôm nay,
trải qua gần 5000 năm lịch sử, trong lúc nhiều thành phố cổ khác đã điêu tàn.”3
* Thời hoàng kim của thánh tích Sarnath
Không phải ngẫu nhiên hay vô tình mà đức Phật Thích-ca đã chọn
Sarnath để chuyển vận bánh xe pháp, đem ánh sáng giải thoát giác ngộ đến cho
nhân loại, mà có lẽ đấy là truyền thống nhiều đời của chư Phật trong quá khứ,
hiện tại và tương lai đều chọn vùng đất này thiết lập ba ngôi báu, thiết lập
chánh pháp, hình thành chiếc nôi của Phật giáo. Qua kinh tạng, chúng ta biết được
rằng vô lượng kiếp chư Phật trong quá khứ từ đức Phật Ca Diếp, đến đức Phật
Thích-ca trong hiện tại và cả đức Phật Di Lặc ở vị lai đã, đang và sẽ chuyển vận
bánh xe Pháp lần đầu tiên tại thánh tích Sarnath này.4
Hơn thế nữa, phải chăng nơi đây là trung tâm của mọi tư tưởng
và học thuật, là thành phố tâm linh của người dân xứ Ấn, nên đức Phật đã quyết
định chuyển pháp luân tại đây, đem ánh sáng giác ngộ xóa tan những luận lý mơ hồ,
những học thuyết thiên chấp về thần quyền, về giai cấp, về chủ nghĩa đoạn diệt
ép xác khổ hạnh, hay buông lung trong lạc thú của trần gian… Để hình thành nên
một trung tâm Phật giáo đầu tiên trên thế giới.
Theo lịch sử của đức Phật Thích-ca, sau khi chuyển vận bánh
xe pháp, hình thành ba ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng tại nơi này, Ngài đã lưu lại
đây để an cư trong ba tháng đầu tiên, thuyết giảng chánh pháp giải thoát cho
nhân loại. Sau đó Ngài đã vân du khắp mọi nơi trên xứ Ấn, để hoằng dương chánh
pháp, giáo hóa độ sanh. Trên bước đường hoằng pháp ấy, rất ít khi đức Phật trở
lại thánh tích này. Tuy nhiên, suốt cuộc đời của Ngài, Sarnath đã trở thành một
trong sáu trung tâm học Phật lớn nhất thời ấy, có số lượng chư Tăng và Phật tử
rất đông. Điều ấy chúng ta bắt gặp qua lời thưa thỉnh của tôn giả A-nan. Sau
khi nghe đức Phật tuyên bố trong ba tháng nữa sẽ nhập Niết-bàn tại rừng cây
Ta-la song thọ, thuộc thành Kusinagar, đức Anan đã ngấn lệ thưa rằng: “Bạch Thế
Tôn, còn có những thành lớn khác. Một là Chiêm-bà, hai là Xá-vệ, ba là Bệ-xá-ly,
bốn là Vương xá, năm là Ba-la-nại, sáu là Ca-tỳ-la-vệ. Sao Thế Tôn không nhập
Niết-bàn ở các nơi ấy, mà quyết định tại thành bằng đất nhỏ hẹp này, một thành
nhỏ hẹp nhất trong các thành?”5
Khoảng 200 năm sau thời đức Phật, đến thời vua Aśoka (A-dục
vương) (304-269 TCN), một vị vua có công nhất trong lịch sử ủng hộ và truyền bá
Phật pháp. Vua Aśoka không những đem giáo pháp của đức Phật truyền bá và áp dụng
trong đời sống của toàn dân Ấn Độ, mà còn truyền giáo pháp của Ngài đến nhiều
nước khác bên ngoài Ấn Độ. Sau khi vứt bỏ thanh gươm chinh phạt, chém giết đầy
tội lỗi, nhà vua đã quay đầu về Phật pháp, từ bỏ đời sống của một vị vua hung
tàn “Ác vương A-dục” để trở thành vị vua thánh thiện “Hộ pháp A-dục”, trở thành
một trong những vị vua nổi danh nhất trong lịch sử của nhân loại. Vua Aśoka đã
phát tâm đi đảnh lễ tất cả các thánh tích của Phật giáo, đồng thời cho người kiến
lập vô số các bảo tháp, tu viện, chùa chiền, trụ đá, bia kí… để hoằng dương
chánh pháp. Lịch sử cho biết có đến 84000 ngôi bảo tháp được kiến tạo trên toàn
lãnh thổ Ấn Độ; hầu hết những di tích như bảo tháp, tu viện, trụ đá… ở Sarnath
hiện nay phần lớn được xây dựng dưới thời của vua Aśoka. Điều ấy chứng tỏ rằng
thánh tích Sarnath thời ấy cũng được vua Aśoka ủng hộ hết lòng, và nơi ấy vẫn
là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng trên toàn cõi Ấn Độ.
Gần 300 năm sau thời vua Asoka, đến thời vua Kanishka (Ca-nị-sắc-ca,
khoảng đầu thế kỉ thứ II AD, một vị vua Phật tử thuần thành), các giáo phái ngoại
đạo nổi lên, họ lấy giáo lý giải thoát của đức Phật trộn lẫn vào lý thuyết của
họ, cho đó là giáo lý giải thoát của mình… làm cho chánh tà xen tạp, lòng người
hoang mang, không biết đâu là Phật pháp chính tông để áp dụng tu tập. Trước
tình hình đó, vua Kanishka đã cung thỉnh các bậc Tỳ-kheo trưởng lão chân tu,
tinh thông giáo pháp đứng ra tổ chức kiết tập lại kinh điển, làm cho Phật pháp
được hiển minh, không để sự xen tạp của các tà thuyết làm mơ hồ. Dưới sự ủng hộ
nhiệt tâm của vua Kanishka, giáo pháp của đức Phật đã được soạn thành văn tự,
biên chép thành sách lần đầu tiên trong lịch sử kinh tạng Phật giáo; đây là kỳ
kiết tập kinh điển lần thứ tư. Dưới thời đại của vua Kanishka, Phật giáo nói
chung, cũng như thánh tích Sarnath nói riêng rất hưng thịnh. Trong những cuộc
khảo cổ, nhiều đồng tiền cổ được phát hiện trong ấy có hình tượng đức Phật, được
đúc dưới triều đại của vua Kanishka, điều ấy có thể khẳng định rằng Phật giáo
được xem như tôn giáo của quốc gia dưới triều đại của ông. Riêng tại thánh tích
Sarnath, nhà vua đã cho trùng tu lại những tu viện cũ, xây thêm những tu viện mới,
và đúc nhiều tượng Phật để góp phần phát triển thánh tích này. Một bia kí đào
được ở Sarnath thuộc triều đại của vua Kanishka, do Tỳ-kheo Bala đã khắc như
sau: “Thành Ba-la-nại nằm dưới sự thống trị của Đại vương Ca-nị-sắc-ca và do một
phó vương dưới quyền của ngài. Có thể nói hầu hết các đại vương đều có doanh trại
ở Mathura. Tỳ-kheo Bala và Pusyabuddhi thuộc gia đình hoàng gia. Họ đã hành
hương chiêm bái những Thánh tích Phật giáo và cúng dường tượng ở những nơi mà họ
đến chiêm bái.”(7) Qua những trình bày trên cho thấy thánh tích Sarnath dưới
triều của vua Kanishka rất hưng thịnh, là nơi quy ngưỡng của mọi người từ vua,
quan, cho đến mọi thần dân.
Sau thời vua Kanishka, đất nước Ba-la-nại có các vị vua khác
nối ngôi cai trị, hầu hết những vị này không ủng hộ Phật pháp nhiều, vì họ theo
tín ngưỡng Bà-la-môn giáo. Tuy nhiên, thánh tích Sarnath trong giai đoạn này
(thế kỉ II –VI AD) vẫn là một trung tâm tu học lớn của Phật giáo, nhưng không
được phát triển bằng những thời kì trước kia. Giữa thế kỉ VII AD, ngài Huyền
Trang (595-664) sang Ấn Độ du học, khi đến chiêm bái thánh tích này đã mô tả
trong cuốn kí sự của mình:
“Phía Đông Bắc của sông Ba-la-nại đi hơn mười dặm, đến chùa Lộc
Dã. Trong khu vực chia ra làm tám phần liên hệ với nhau, nhà cửa lầu các tráng
lệ quy mô. Tăng sĩ sống hơn 1500 người, tu theo Chánh Lượng Bộ thuộc Tiểu thừa.
Trong thành lớn có một Tinh xá cao hơn 200 feet (60 m). Phía bên trên tạo hình
một trái xoài được thếp màu vàng. Đá nhiều tầng chồng chất tạo thành. Đá chất
lên bốn bên như thế cả hàng trăm miếng, mỗi miếng đều có chạm tượng Phật màu
vàng. Ở trong Tinh xá đó, có một tượng Phật bằng đá gần bằng thân của đức Như
Lai, tạc theo tư thế chuyển pháp luân. Phía Tây Nam Tịnh xá có một bảo tháp bằng
thạch do vua A-dục dựng lên, đã hư hoại, chiều cao hơn 100 feet (30 m). Phía
trước đó có dựng một trụ đá cao hơn 70 feet (25 m). Đây là thạch ngọc cho nên
có ánh sáng phản chiếu rất đẹp. Người nào có tâm đến cầu phước, ảnh của mình sẽ
chiếu lên các tượng và thấy rõ tướng Thiện Ác. Đây là nơi Như Lai thuyết pháp lần
đầu tiên sau khi thành đạo.”(8)
Qua sự mô tả của ngài Huyền Trang cho ta biết rằng, thánh
tích Sarnath vào giai đoạn này vẫn còn phát triển, mọi lầu các, tu viện vẫn còn
tráng lệ và quy mô, các Tỳ-kheo ở đó có hơn 1500 người... như thế nơi đây vẫn
là một trung tâm Phật giáo thịnh hành, một thánh tích thiêng liêng để mọi người
quyngưỡng.
Như vậy, lịch sử của thánh tích Sarnath từ thời của đức Phật
đến thế kỉ thứ VII AD, trải qua hơn một ngàn năm vẫn còn là một thánh tích
thiêng liêng, một trung tâm tu học lớn của Phật giáo; là thánh địa trang nghiêm
thanh tịnh cho hàng ngàn chư Tăng thúc liễm thân tâm tu tập giải thoát, là nơi
quy ngưỡng của những bậc đế vương như Asoka, Kanishka.... là suối nguồn của giải
thoát từ bi, tắm mát cho hàng vạn dân xứ Ấn. Thời kì này có thể gọi là thời
hoàng kim của thánh tích Sarnath.
* Thời suy tàn của thánh tích Sarnath
Nếu thánh tích Sarnath có hơn một ngàn năm để phát triển huy
hoàng (từ thời đức Phật đến thế kỉ VIII), thì cũng có cả ngàn năm bị điêu tàn,
lãng quên và chôn vùi trong cát bụi. Từ thế kỉ thứ VIII đến thế kỉ XVIII, lịch
sử của Sarnath là những trang sử bi thương. Thế kỉ VIII trở đi, thánh tích
Sarnath hầu như ít được mọi người biết đến, có lẽ thời điểm này sự tu tập và hoằng
pháp ở nơi đây không được phát triển; lại thêm các triều đại lúc ấy do các vị
vua theo Ấn giáo cai trị, những vị vua này không những không ủng hộ Phật giáo
mà còn cho xây những ngôi đền Ấn giáo bên cạnh thánh tích Sarnath, từ đó tạo sự
lấn áp của Ấn giáo. Sự thiếu ủng hộ của vua quan, quần chúng... đã làm cho
Sarnath ngày càng mai một và bị lãng quên.
Trang sử bi thương và kinh khiếp nhất của thánh tích Sarnath
thật sự bắt đầu từ sự xâm lược của các đội quân Hồi giáo cực đoan. Năm 1193 cầm
đầu đội quân tàn ác ấy là vua Mahommada, sau khi xâm lược Ấn Độ, đội quân hung
tàn này đã chém giết và phá sạch tất cả những công trình kiến trúc của các tôn
giáo khác. Vua Mahommada đã tuyên bố chấm dứt triều đại Ấn giáo và lập nên
vương triều Hồi giáo. Trong những lần xâm lược của các đội quân hung tàn ấy có
đến hàng vạn tu sĩ của Phật giáo và Ấn giáo bị giết hại, hàng ngàn chùa tháp,
tu viện, đền đài bị đập phá và đốt sạch; những thánh tượng của đức Phật, Bồ-tát
đều bị tàn phá, đập nát và chôn vùi hết sức vô lương tâm. Hầu hết những thánh
tích nổi tiếng của Phật giáo như Bồ-đề-Đạo tràng, Sarnath... đều bị hủy diệt;
chỉ riêng Viện đại học Phật giáo Nalanda, toàn bộ kho tàng kinh sách, thư viện,
đền đài, phòng xá... bị tàn phá và đốt cháy ròng rã nửa năm !!!
Sau khi hủy diệt những đền đài, tu viện, chùa tháp... quân Hồi
đã bắt dân chúng xây dựng những đền đài Hồi giáo ngay trên các thánh tích và tu
viện này. Thánh tích Sarnath ngày ấy hầu như đã xóa sổ và hoàn toàn bị chôn vùi
trong cát bụi.
Sự độc tôn và tàn ác của Hồi giáo cực đoan cai trị vùng đất
này đến thế kỉ XVIII. Sau đó người Ấn giáo đứng lên giành lại chính quyền. Giai
đoạn đen tối của Phật giáo tưởng đã đi qua, nhưng tín đồ Ấn giáo cũng độc tôn,
tiếp tục nổi lên đập phá toàn bộ những thánh đường Hồi giáo và cho xây dựng đền
Ấn giáo ngay trên những vùng đất ấy. Phật giáo nói chung hay thánh tích Sarnath
ngày ấy nói riêng vẫn tiếp tục chìm trong bóng tối.
Người Ấn giáo tuy không hiếu chiến như người Hồi giáo cực
đoan, nhưng niềm tin tôn giáo và tính bảo thủ của họ mạnh mẽ, do vậy Phật giáo
vẫn chưa có cơ hội phục sinh ngay trên mảnh đất sản sinh ra nó. Thậm chí cho đến
ngày nay, tính bảo thủ ấy vẫn còn rất mạnh, hầu như các nơi trên xứ Ấn, hễ nơi
nào có một ngôi đền, nhà thờ hay tu viện của các tôn giáo khác xây dựng lên thì
người Ấn sẽ xây một đền thờ Ấn giáo bên cạnh để kìm hãm sự phát triển của tôn
giáo ấy. Như vậy, sự phục hưng của Ấn giáo cũng như sự chấm dứt của vương triều
Hồi giáo bạo tàn cũng không làm cho Phật giáo hồi sinh được và suốt những thế kỉ
ấy thánh tích Sarnath vẫn còn ngủ quên cùng cát bụi thời gian. Qua sự tìm hiểu
trên, chúng ta thấy rằng thánh tích Sarnath từ thế kỉ thứ 8 đến thế kỉ 18, trải
qua cả ngàn năm đi từ suy tàn đến hoại diệt. Khoảng thời gian ấy có thể gọi là
thời suy tàn của thánh tích Sarnath.
* Thời kì hồi sinh và phát triển trở lại của thánh tích
Sarnath
Thánh tích Sarnath tuy bị chôn vùi trong cát bụi, bị sự lấn
áp và che phủ của cỏ dại, cây rừng... nhưng lại ẩn chứa trong lòng những bảo vật,
những tranh tượng vô giá cũng như một khối lượng khổng lồ gạch đá ở đây. Do vậy
vào cuối thế kỉ 18, người dân Ấn giáo thường xuyên vào nơi đây để khai thác tìm
bảo vật cũng như đào xới khu vực này để lấy gạch đá về xây nhà cửa, dinh thự...
Trước tình hình ấy, năm 1798, chính quyền Ấn Độ công nhận thánh tích Sarnath là
khu di tích quốc gia và nghiêm cấm mọi sự đào xới của cá nhân. Khu di tích
Sarnath bắt đầu được mọi người trong nước và thế giới biết đến qua các cuộc
khai quật khảo cổ của Alexander Cunningham, nhà khảo cổ nổi tiếng người Anh, cũng
như những nhà khảo cổ nổi tiếng khác. Sự phát hiện những nền móng tu viện, chùa
tháp, trụ đá, bia kí... và hàng trăm tranh, tượng của đức Phật, Bồ-tát... như
là những chứng cứ hùng hồn, góp một tiếng nói quan trọng cho cộng đồng Phật
giáo trên thế giới cũng như sự quan tâm của các học giả trí thức... tìm về
chiêm ngưỡng.
Nhưng tất cả những điều ấy chưa làm cho thánh tích Sarnath
cũng như Phật giáo ở nơi này hồi sinh. Thánh tích Sarnath thật sự hồi sinh,
phát triển trở lại và được cộng đồng Phật tử khắp nơi trên thế giới biết đến
qua sự xuất hiện của ngài Dhammapāla. Ngài Dhammapāla là một danh Tăng nổi tiếng
người Sri Lanka trong phong trào chấn hưng Phật giáo nước này, không những thế,
Ngài còn hoằng dương Phật pháp đến các nước phương Tây, Ngài là người đứng ra vận
động chư Tăng và Phật tử trên thế giới thành lập hội Maha Bodhi để đòi lại
thánh tích Bồ-đề Đạo tràng từ trong tay những người Ấn giáo. Năm 1891, ngài
Dhammapāla đến thánh tích Sarnath, nhìn thấy cảnh tượng điêu tàn của khu thánh
tích, cũng như Phật giáo ở nơi này, đau lòng trước cảnh ấy, Ngài đã phát nguyện
ở lại nơi này vận động cộng đồng chư Tăng và Phật tử khắp nơi trên thế giới
quan tâm và ủng hộ. Riêng bản thân, Ngài đã vận động xây dựng một ngôi chùa nổi
tiếng ngay cạnh thánh tích này. Với những công trình Ngài đã thực hiện và đóng
góp ở nơi đây, chính phủ Ấn Độ đã ghi ân bằng cách lấy tên Ngài đặt tên cho một
con đường ở đây và đem xá-lợi Phật khai quật được ở Taxila, Nagarjuni Konda, hiến
tặng Ngài để tôn thờ trong chùa này. Cộng đồng chư Tăng và Phật tử các nước
trên thế giới đã đến chiêm bái thánh tích này và xây dựng những ngôi chùa đại
diện của nước mình gần thánh tích Sarnath và cùng chung lo Phật sự, góp phần
làm cho Phật giáo ở nơi đây được phát triển trở lại. Cho đến ngày nay, thánh
tích Sarnath được chính phủ Ấn Độ cùng cộng đồng Phật tử nơi đây bảo vệ. Thánh
tích Sarnath đã thật sự chuyển mình sau giấc ngủ ngàn thu và phát triển trở lại,
trở thành một trong những thánh tích thiêng liêng và nổi tiếng nhất của cộng đồng
Phật giáo hiện nay. Hàng năm thánh tích này đã quy tụ hàng triệu người con Phật
từ khắp nơi trên thế giới trở về để chiêm bái, tụng kinh, tọa thiền và trải
lòng mình để đón nhận những âm vang của bài pháp Tứ Diệu Đế trong một khu vườn
thiêng liêng, tú lệ bên cạnh những chú nai gặm cỏ hiền lành.■
Chú thích:
1. Xem Đại Đường Tây Vực Ký, Quyển 7, TT. Thích Như Điển dịch.
2. Xem Sđd.
3. Mùi Hương Trầm, Tập II: Suối nguồn thiêng liêng, Tr.49,50. Nguyễn Tường
Bách.
4. Xem Kinh Trường A-hàm, Kinh Đại Bản Duyên, TT. Tuệ Sỹ dịch và chú giải.
5. Kinh Trung A-hàm, Kinh Đại Thiện Kiến Vương, Tr.1, TT. Tuệ Sỹ dịch và
chú giải.
Sarnath