Pháp Luân
a). Nguồn gốc
Khi tìm hiểu về hình tượng bánh xe trong Đạo Phật,
chúng ta không thể không nhắc đến pháp luân (P.dhammacakka, S. dharmacakra), một trong những hình tượng nghệ thuật độc đáo và là biểu
tượng tinh thần cao cả nhất của truyền thống tâm linh này.
Pháp luân là bánh xe pháp. Pháp ở đây là nguyên
lý hay chân lý mà Đức Phật đã chứng ngộ trong đêm thành đạo và sau đó Ngài đã
tuyên thuyết cho nhân gian.
Thông thường pháp luân được dùng để dụ cho giáo pháp của Đức Phật,
gồm ba nghĩa chính: tồi phá (Phật pháp có công năng diệt trừ tội ác của chúng
sanh), triển chuyển (sự thuyết giáo của Đức Phật cũng như bánh xe luôn di chuyển,
không dừng trệ lại ở bất cứ người nào hay nơi nào), và viên mãn (giáo pháp của
Đức Phật viên mãn, tròn đầy như bánh xe)[5]. Đôi khi, pháp luân cũng còn được gọi
là Phạm luân.
Theo luận Đại Trí Độ, chữ phạm này được giải thích
theo nhiều cách như sau:
1) Phạm là rộng lớn, Đức Phật chuyển pháp luân đến khắp
mười phương nên gọi là phạm;
2) Đức Phật dùng bốn tâm phạm hạnh (từ, bi, hỷ, xả) để
thuyết pháp nên gọi là phạm;
3) Lúc mới thành đạo, Phạm Thiên đã khuyến thỉnh Đức
Phật chuyển pháp luân nên gọi là phạm luân;
4) Trong lần chuyển pháp luân của Đức Phật tại Ba-la-nại,
tôn giả Kiều Trần Như chứng đắc đạo thanh tịnh, nên gọi là phạm luân;
5) Người Ấn thời xưa vốn tôn quí Phạm thiên, vì thế để
tuỳ thuận theo người đời, pháp luân cũng được gọi là phạm luân[6];
6) Phạm là thanh tịnh, giáo pháp của Đức Phật vốn
thanh tịnh nên gọi là phạm;
7) Đức Phật là đấng Đại Phạm, luôn dùng phạm âm để
thuyết pháp[7].
Bộ luận này cũng lý giải về sự khác biệt giữa phạm luân và pháp
luân như sau:
·
phạm luân dạy về bốn tâm vô lượng còn pháp luân nói về
bốn thánh đế,
·
phạm luân dạy rằng nhân bốn tâm vô lượng này mà đắc đạo, còn pháp luân dạy rằng
nương theo các pháp khác mà đắc đạo,
·
phạm luân chỉ bày về tứ thiền còn pháp luân chỉ
bày về ba mươi bảy phẩm trợ đạo,
·
phạm luân dạy tu thiền thánh đạo còn pháp luân dạy
tu trí tuệ thánh đạo[8].
·
Theo kinh Trường Bộ I và bộ Đại Phẩm (Luật Tạng Nam
Truyền I), sau khi giác ngộ, theo lời cầu thỉnh của Phạm Thiên, Đức Phật đã quyết
định đến xứ Ba-la-nại để tuyên thuyết giáo pháp mà mình vừa chứng ngộ được cho
năm nhà khổ hạnh vốn là bạn đồng tu của Ngài.
Đáp lại câu hỏi của đạo sĩ loã thể Upaka, Đức Phật đã
trả lời rằng Ngài đến thành phố Kāsi để chuyển bánh xe pháp, để đánh trống bất
tử[9]. Đây là lời tuyên bố đầu tiên của Đức Phật trước khi Ngài chính thức thiết
lập vương quốc chánh pháp của mình. Mục đích của Đức Phật khi đến xứ Ba-la-nại
như thế cũng chính là mục đích mà chư Phật trong nhiều đời đã từng thị hiện
trên thế gian này được trình bày trong kinh Pháp Hoa: chỉ bày cho chúng sanh
tri kiến của chư Phật và giúp họ thấu hiểu và chứng đạt được tri kiến đó.
Kinh Tăng Nhất A Hàm cũng nói rằng Đức Phật xuất hiện ở đời vì năm
mục đích sau: (1) chuyển pháp luân, (2) độ cha mẹ, (3) kiến lập niềm tin cho
người chưa có lòng tin, (4) khiến người chưa phát Bồ tát ý phát tâm Bồ tát, (5)
thọ ký cho các vị Phật tương lai[10]. Cũng từ đây pháp luân trở thành biểu tượng
cho chánh pháp của Đức Phật.
b) Pháp Luân và sự Phát triển của tư tưởng Phật
giáo
Việc Đức Phật chuyển
bánh xe pháp tại Lộc Uyển để gióng lên hồi chuông tỉnh thức, để đánh lên tiếng
trống bất tử được xem là một trong bốn sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời của
Ngài cũng như trong lịch sử hình thành và phát triển của Đạo Phật[11]. Thuật ngữ
thường dùng để chỉ cho sự kiện này là Chuyển
pháp luân (P. dhammacakkappavattana, S. dharmacakra-pravartana).
Ngoài ý nghĩa thông thường là chuyển vận bánh xe chánh
pháp, thuật ngữ này còn mang ý nghĩa là thành lập vương quốc trí tuệ hay xây dựng
vương quốc chân lý[12].
Vương quốc mà Đức Phật đã khai sáng đó không phải được xây dựng
trên bạo lực, cường quyền, bánh xe pháp mà Ngài đã chuyển vận cũng không dựa
trên sự áp đặt những niềm tin mù quáng, mà ngược lại chúng được thiết lập trên
nền tảng tri kiến như thị về cuộc đời và ước nguyện xây dựng một đời sống tâm
linh hướng thượng. Điều này được thể hiện ngay trong nội dung bài pháp đầu tiên
của Ngài.
Nội dung bài pháp đầu tiên của Đức Phật được ghi lại trong
rất nhiều văn bản Phật học thuộc các truyền thống khác nhau[13]. Trong số các
văn bản này, kinh Thánh Cầu (Trung Bộ I, tương ứng với kinh La Ma trong Trung A
Hàm),Nidānakathā – chương giới thiệu của bản luận giải kinh Bổn Sanh
(jātakatthakathā), kinh Chuyển Pháp Luân (nằm trong Đại Phẩm của Luật Tạng Nam
Truyền), kinh Tương Ưng, và kinh Tạp A Hàm là những nguồn tư liệu quan trọng nhất[14].
Điều đáng chú ý là tuy cùng thuật lại sự kiện chuyển
pháp luân của Đức Phật, các tư liệu trên lại trình bày khác nhau về nội dung
giáo lý mà Đức Phật đã giảng dạy. Kinh Thánh Cầu thuật lại rằng tại Lộc Uyển Đức
Phật đã giảng giải cho năm Tỳ-kheo về sự nguy hiểm của sanh, già, bệnh, chết, ô
nhiễm, dục lạc và con đường vượt thoát những triền phược đó để chứng pháp vô
sanh, vô nhiễm, vô thượng an ổn, vượt qua các khổ ách, chứng đắc Niết Bàn[15].
Kinh La Ma thì ghi rằng Đức Phật đã thuyết giảng về
pháp môn Trung Đạo và Bát Chánh Đạo[16]. Riêng trong kinh Tương Ưng,
chươngTương Ưng Uẩn (Tương Ưng III) nói rằng Đức Phật đã dạy về đặc tính vô thường,
khổ, và vô ngã của năm uẩn[17], còn chương Tương Ưng Sự Thật (Tương Ưng V) thì
thuật lại rằng ban đầu Đức Phật giảng về lý Trung Đạo, Bát Chánh Đạo, sau đó
Ngài giảng giải chi tiết về Tứ Thánh Đế[18]. Theo kinh Tạp A Hàm, quyển 15, Đức
Phật đã giảng pháp Tứ Đế cho các Tỳ-kheo tại Lộc Uyển[19].
Kinh Chuyển Pháp Luân thì ghi lại rằng Đức Phật đã giảng dạy về lý
Trung Đạo và Tứ Đế cho năm người đệ tử đầu tiên của mình. Như thế, tuy các văn
bản trên có đôi nét khác biệt, chúng ta vẫn có thể khẳng định một điều là giáo
lý chính yếu mà Đức Phật đã thuyết giảng lần đầu tiên tại Lộc Uyển là giáo lý Tứ
Đế.
Theo kinh Chuyển Pháp Luân, ngay sau khi Đức Phật thuyết
giảng bài pháp đầu tiên tại Lộc Uyển, chư thiên các cõi trời dục giới tuần tự
truyền nhau rằng: “ Bánh xe Pháp tối thượng ấy đã được đức Thế Tôn chuyển vận ở
Ba-la-nại, tại Isipatana, nơi vườn nai không thể bị chuyển vận nghịch lại bởi
sa-môn, bà-la-môn, Thiên nhân, Ma vương, Phạm thiên, hoặc bất cứ ai ở trên đời
. ”
Liền khi ấy mười ngàn thế giới chấn động, một vầng hào
quang toả chiếu siêu việt cả hào quang của chư thiên các cõi trời[20]. Khi nói
rằng bánh xe pháp không thể bị “chuyển vận nghịch lại” như thế, đoạn kinh trên
đã khẳng định một sự thật là giáo pháp của Đức Phật là bất biến, khế hợp trong
mọi thời, mọi nơi, lợi lạc cho mọi căn cơ khác nhau. Đây chính là một trong những
nét độc đáo nhất của hình tượng pháp luân trong Đạo Phật.
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo
pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng vể phía trước,
di chuyển, lan toả đến nhiều xứ sở khác nhau. Giáo pháp ấy vốn tự thân đã hoàn
bị, sự lý viên dung, và đã được chính Đức Phật chuyển vận ngay tại trung tâm
văn hoá và tâm linh lớn nhất thời bấy giờ trong vương quốc mà Ngài đang cư trú,
đó là thành Ba-la-nại.
Nếu như Vương Xá là trung tâm chính trị và kinh tế lớn nhất của
vương quốc Ma-kiệt-đà thì Ba-la-nại, một miền đất thiêng nằm trên bờ sông Hằng
được mệnh danh là thành phố của thần linh, lại là trung tâm văn hoá và tinh thần
quan trọng, là nơi qui tụ của các nhà lãnh đạo tinh thần kiệt xuất nhất thời bấy
giờ. Ngay từ khi cùng Xa-nặc từ bỏ thành Ca-tỳ-la, thái tử Tất Đạt Đa đã khẳng
khái khước từ mọi uy quyền thế trị để tìm về cội nguồn của sức mạnh tâm linh
siêu tuyệt.
Chính vì thế, ngay sau khi thành đạo Ngài đã quyết định
đến Ba-la-nại, kinh thành tâm linh thời bấy giờ để gióng lên tiếng trống bất tử
và chuyển vận bánh xe chánh pháp, mang ánh sáng chân lý vào đời. Từ đây, bổn phận
của những thế hệ tiếp nối truyền thống tâm linh ấy là làm sao bảo tồn và tiếp tục
chuyển vận bánh xe pháp đến mọi phương trời khác nhau.
Ý nguyện này đã được chính Đức Phật gởi gắm cho tôn giả Xá-lợi-phất,
vị hộ trì chánh pháp đệ nhất, như sau: “Này Sàriputta, ví như trưởng tử, con
vua Chuyển luân vương, chơn chánh vận chuyển bánh xe đã được vua cha vận chuyển.
Cũng vậy, này Sàriputta, Ông chơn chánh chuyển vận pháp luân vô thượng đã được
Ta chuyển vận.”[21]
Những trình bày trên cho thấy rằng thuật ngữ pháp luân
được phát sanh từ thành ngữ chuyển pháp luân, nghĩa là chuyển vận bánh xe pháp.
Do vậy hình tượng bánh xe trong thuật ngữ pháp luân không phải ám chỉ đến sự thể
nhập hay chứng ngộ chánh pháp (như các thuật ngữ pháp nhãn, pháp huệ) mà là nhắm
đến ý nghĩa truyền bá chánh pháp.
Ý nghĩa chính của chữ
pháp trong thuật ngữ này được trình bày trong kinh Chuyển
Pháp Luân đó là giáo lý Tứ Đế - bốn chân lý cao thượng. Ngoài hình tượng chuyển
pháp luân, kinh điển nhà Phật còn dùng các hình ảnh: đánh trống pháp (kích pháp
cổ), thổi kèn pháp (suy pháp loa), dựng cờ pháp (thụ pháp tràng), đốt đuốc pháp
(nhiên pháp cự), tuôn mưa pháp (vũ pháp vũ)…để diễn tả việc thuyết giáo, truyền
bá chánh pháp của Đức Phật[22].
Kinh Chuyển Pháp Luân ghi lại rằng khi giảng dạy bài
kinh này cho năm anh em tôn giả Kiều Trần Như, Đức Phật đã chuyển vận bánh xe
pháp mà xưa nay chưa có một ai chuyển được, dầu đó là Thiên nhân, Ma vương hay
Phạm thiên. Điều này hàm ý rằng Đức Phật là người đầu tiên đã hiến tặng cho
nhân loại món quà chánh pháp vô giá, để từ đó hình thành ba ngôi báu của thế
gian.
Pháp luân mà Đức Phật đã từng chuyển vận là vô giá bởi lẽ thể tánh
của nó vốn xứng hợp với chân như, với thật tánh của vạn hữu. Theo Luận Đại Tỳ-bà-sa,
Luận Câu Xá, Kinh Đại Bát Niết Bàn…, trong hai mươi bộ phái thì mười bộ phái đầu
như Hữu bộ, Đa Văn bộ, Kinh Lượng bộ…lấy Bát Chánh Đạo làm thể của pháp luân,
mười bộ còn lại như Đại Chúng bộ, Pháp Tạng bộ, Ẩm Quang bộ…thì cho rằng những
lời Phật dạy đều là thể của pháp luân[23].
Trong kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, Đức Phật đã
minh giải thể tánh này cho ngài Di Lặc và các bậc Bồ tát khác như sau: pháp
luân vốn thâm sâu, vi diệu, khó thấy, khó biết, khó ngộ, kiên cố, bao la, không
thể dùng thức để suy nghiệm, chẳng thể dùng trí để hiểu, lìa mọi thái cực, mọi
phan duyên, xa rời tác ý hoặc không tác ý…chỉ có thể dùng trí Kim Cang để chứng
đắc. Vì pháp luân hiển bày bản tánh bất sanh bất diệt của các pháp, khế hợp với
chân như thật tế, nên những ai chuyển được pháp luân như thế thì được tôn xưng
là Phật, là Chánh Biến Tri, là Pháp Vương, là Đại Đạo Sư[24]…
Lời dạy này đã nêu bậc giá trị vĩnh hằng và vô song của bánh xe pháp mà Đức Phật đã chuyển vận. Giáo pháp mà Đức Phật đã chuyển vận trong lần đầu tiên tại Ba-la-nại, rồi kế đến tại Già-da, Vương Xá, Tỳ-xá-ly, Xá Vệ…tuy khác biệt trên phương diện ngôn ngữ hay phương thức diễn đạt, nhưng lại mang tính đồng nhất về tư tưởng và mục đích.
Theo ngài Khuy Cơ, năm đặc điểm chính của pháp luân là
tự tánh, quyến thuộc, nhân, cảnh, và quả. Tự tánh pháp luân là trạch pháp, giác
chi, chánh kiến.v.v…, Nhân của pháp luân là hay sanh giáo pháp thánh đạo như
văn, tư, tư .v.v…Quyến thuộc của pháp luân là các pháp trợ thánh đạo. Cảnh của
pháp luân là các giáo lý về chơn đế và tục đế…Quả của pháp luân là Bồ đề, Niết
Bàn[25]. Một số văn bản Đại Thừa cho rằng lần chuyển Pháp luân tại Lộc Uyển chỉ
là lần đầu trong ba lần chuyển Pháp luân của Đức Phật.
Theo kinh Giải Thâm Mật, tại Ba-la-nại Đức Phật đã
chuyển bánh xe pháp lần đầu tiên thông qua bài pháp Tứ Đế cho những hành giả có
chủng tánh Thanh Văn. Dầu rằng đây là một giáo lý thâm sâu mà trước đó chưa ai
có thể tuyên thuyết được, song đây vẫn chưa là giáo lý toàn hảo.
Trong lần chuyển
bánh xe pháp lần thứ hai Đức Phật vì
những chúng sanh phát tâm hướng về Đại Thừa mà giảng giải rằng các pháp vốn vô tự tánh, vô sanh, vô diệt,
bổn lai tịch tịnh, tự tánh Niết Bàn. Tuy giáo lý trong giai đoạn này thậm thâm,
hy hữu, nhưng lại là giáo lý ẩn mật, khó hiểu, còn hàm chứa nhiều tranh luận,
và đây là lý do để Đức Phật chuyển bánh xe pháp lần thứ ba.
Trong lần giáo hoá sau cùng này, Đức Phật vì các hành
giả hướng tâm đến tất cả các thừa giáo, giảng thuyết một cách minh bạch, tường
tận về bản tánh vô sanh, vô diệt, vắng lặng, trong sạch cũng như tánh vô tự
tánh của các pháp. Pháp luân được chuyển vận trong lần sau cùng này là hy hữu, không vướng đọng bất kỳ tranh luận nào,
toàn hảo, và tối thượng[26]. Bản kinh này được xem là cơ sở y cứ để các nhà Đại
Thừa sau này, nhất là các luận sư Phật giáo Trung Hoa và Tây Tạng đưa ra nhiều
cách giải thích khác nhau về ba lần chuyển bánh xe pháp của Đức Phật.
Nếu như sự khác biệt về giáo nghĩa của lần chuyển pháp luân đầu
tiên và hai lần sau là tư tưởng giáo lý Thanh Văn thừa và Đại thừa, thì sự khác
biệt giữa lần chuyển pháp luân thứ hai và thứ ba là Bất liễu nghĩa giáo (hay vị
liễu nghĩa – neyārtha) và Liễu nghĩa giáo (nītārtha). Liễu nghĩa giáo là những
giáo lý, kinh điển được trình bày một cách minh bạch, tường tận, còn Bất liễu
nghĩa giáo là những kinh điển hay giáo lý được trình bày thông qua những phương
tiện hay giáo tướng để tuỳ thuận giáo hoá chúng sanh thuộc nhiều căn cơ khác
nhau.
Theo luận sư Long Thọ, Phật pháp thì vô biên, sâu rộng
như đại dương, hàng phàm phu thấy giáo pháp có muôn vàng sai khác, nhưng các bậc
trí - những người đã thâm nhập giáo lý của kinh điển, luận tạng và tánh không,
thì mới biết được rằng giáo pháp của Đức Phật đều là chánh pháp và không hề
tương phản nhau[27].
Cũng chính vì sự cách biệt giữa giáo pháp thâm áo của
Đức Phật và tri thức thế tục của hàng phàm phu nên đại sư Tsong kha pa
(Tông-khách-ba) đã khuyến hoá các hàng Phật tử nên tìm hiểu giáo lý của Đức Phật
dựa trên những luận giải của các bậc tổ sư Đại thừa như các ngài Long Thọ và Vô
Trước. Ngài Tsong kha pa giải thích rằng sở dĩ hàng Phật tử phải y cứ vào các bản
luận giải của những bậc tổ sư trên vì các ngài đã dùng trí tuệ vô nhiễm để giảng
giải lời Phật dạy, và chính Đức Phật cũng đã từng huyền ký rằng các bậc tổ sư
này chính là những người giảng giải Phật pháp một cách chuẩn xác và đúng đắng[28].
Theo ngài Tsong kha pa, cơ sở của sự phân định ba thời
chuyển pháp luân không phải là các khoảng thời gian hành đạo trong cuộc đời của
Đức Phật hay là căn cơ của thính chúng trong mỗi thời giáo, mà chính là cách thức
trình bày giáo lý vô ngã trong mỗi thời như thế. Trong lần chuyển pháp luân đầu
tiên, Đức Phật đã trình bày tinh tế về nguyên lý nhơn vô ngã, nhưng khi tiếp nhận
giáo lý trong giai đoạn này thính chúng lại khởi lên tư duy rằng các uẩn cùng
những pháp khác vốn là thật có.
Trong lần chuyển pháp luân thứ hai, Đức Phật phủ nhận
quan điểm này và Ngài tuyên bố rằng các
pháp vốn không có tự tánh nên chúng không thật có. Trong lần chuyển pháp
luân thứ ba, Đức Phật đã lý giải sự khác biệt giữa tam tánh và tam vô tánh của
các pháp[29].
Tương tự như cách lý giải của luận sư Tsong kha pa,
các học giả phái Dge lugs pa đều cho rằng sự phân chia của ba lần chuyển pháp
luân như trên được thực hiện trên cơ sở đề tài thuyết giáo của Đức Phật và rằng
phương thức trình bày giáo lý vô ngã chính là yếu tố quyết định đối với sự phân
chia như thế[30].
Tại Trung Hoa, Chân Đế (499-569) và Huyền Trang (600-664), hai nhà
dịch kinh danh tiếng, cũng đưa ra những thuyết tam pháp luân khác nhau. Theo
ngài Chân Đế, trong 45 năm hoằng hoá của Đức Phật, Ngài đã tuyên thuyết ba pháp
luân, đó là chuyển, chiếu, và trì. Ba lần chuyển này gồm có hiển và mật. Mật là
từ đêm thành đạo cho đến đêm nhập Niết Bàn, Ngài đều chuyển ba pháp luân. Hiển
là trong bảy năm đầu tiên kể từ sau ngày thành đạo, Đức Phật chỉ thuyết giảng
giáo lý tứ đế, gọi là chuyển chuyển pháp luân.
Trong 31 năm kế
tiếp, Ngài tuyên thuyết kinh Bát nhã .v.v…để hiển bày về tính không, gọi là chuyển chiếu pháp luân,
trong thời gian bảy năm còn lại, Ngài thuyết
Kinh Giải Thâm Mật.v.v…để hiển bày lý trung đạo, gọi là chuyển trì pháp
luân[31]. Trong tác phẩm Hoa Nghiêm Nhất Thừa Giáo Nghĩa Phân Tề Chương, ngài
Pháp Tạng cho rằng nếu y cứ vào quan điểm của pháp sư Huyền Trang và tư tưởng của
những kinh điển khác như Giải Thâm Mật, Kim Quang Minh, và Luận Du Già thì giáo
lý của Đức Phật gồm thâu trong ba loại pháp luân: thứ nhất, tại vườn nai Đức Phật
chuyển pháp luân tứ đế, là pháp tiểu thừa, gọi là chuyển pháp luân; thứ hai,
Ngài nói về tánh không, tức mật ý của Đại Thừa, gọi là chiếu pháp luân; thứ ba,
Ngài thuyết giảng về tam tánh và lý chân như bất không của Đại Thừa hiển giáo,
gọi là trì pháp luân[32]. Theo quan điểm của ngài Khuy Cơ, tuy được chia thành
ba thời chuyển pháp luân như thế, song giáo pháp của Đức Phật giống như một cơn
mưa lớn, thấm nhuần khắp mọi vật.
Vì để tuỳ thuận
căn cơ mà đối trị, nên mới có pháp ẩn-hiển, có-không.
Xét theo lý trung đạo, giáo pháp ấy vốn đồng nhất, vô
sai biệt[33]. Thuyết tam pháp luân của ngài Cát Tạng thì khác hẳn với những
thuyết trên. Theo ngài, pháp luân bao gồm ba loại; căn bổn, chi mạt, và nhiếp mạt
qui bổn. Căn bổn pháp luân chỉ cho kinh Hoa Nghiêm mà Đức Phật tuyên thuyết đầu
tiên ngay sau khi thành đạo. Chi mạt pháp luân là giáo pháp tiểu thừa được thuyết
cho hàng độn căn, không lãnh hội được giáo nghĩa thâm sâu của Hoa nghiêm. Nhiếp
mạt qui bổn là chỉ cho thời thuyết giáo Pháp Hoa qui ba thừa thành nhất thừa[34].
Căn cứ vào những luận cứ trên của kinh Giải Thâm Mật
và của các luận sư Đại Thừa, một số nhà Phật học kết luận rằng nội dung của ba
lần chuyển pháp luân như sau: lần thứ nhất, thông qua kinh điển và luận tạng của
hai phái Nguyên Thuỷ và Tiểu thừa, giáo lý Tứ Đế được giảng thuyết cho các hành
giả Thanh văn thừa; trong lần thứ hai, nguyên lý tánh không được tuyên thuyết
cho các hành giả Bồ tát thừa, kinh điển y cứ tiêu biểu trong giai đoạn này là
các bộ kinh hệ Bát Nhã; và trong lần cuối, với hệ thống kinh điển Đại thừa tối
quan trọng như Pháp Hoa, Như Lai Tạng, Giải Thâm Mật…giáo lý tam tự tánh, tam
vô tánh, Phật tánh, Như Lai tạng, pháp thân…được tuyên thuyết làm hành trang
cho các hành giả Đại thừa[35].
c). Pháp Luân
trong kiến trúc, nghệ thuật Phật giáo
Sự kiện Đức Phật chuyển pháp luân là một trong những đề
tài chính của các nhà điêu khắc Phật giáo tại Ấn Độ. Pho tượng Đức Phật ngồi kiết
già, tay bắt ấn chuyển pháp luân tuyệt đẹp được tìm thấy tại Lộc Uyển là pho tượng
tiêu biểu nhất cho đề tài này. Hầu như mẫu tượng này đều xuất hiện trong hầu hết
các công trình nghệ thuật Phật giáo lớn tại Ấn.
Đối với các nghệ nhân Ấn, hình ảnh Đức Phật ngồi trên
một pháp toà, tay bắt ấn pháp luân với nhiều tư thế, dáng vẻ khác nhau, có khi
được kết hợp với hình ảnh của năm vị Tỳ kheo hoặc hình ảnh của những con nai,
đã phần nào vẻ lại khung cảnh ý nghĩa trong lần chuyển pháp luân đầu tiên của Đức
Phật. Có thể rằng khi thuyết giảng cho năm anh em tôn giả Kiều Trần Như, Đức Phật
đã dùng các cử chỉ của tay để minh hoạ cho những ý tưởng khó có thể thể hiện
qua ngôn ngữ thông thường.
Tất nhiên, trong suốt buổi pháp thoại, những cử chỉ, động tác của
hai tay của Ngài được thể hiện qua nhiều dáng vẻ khác nhau. Đây là cơ sở để các
nghệ nhân Ấn diễn tả tư thế hai tay của Đức Phật trong buổi giảng pháp đầu tiên
tại Lộc Uyển (ấn chuyển pháp luân) và trong các buổi giảng khác của Ngài (ấn
pháp luân) tại những nơi khác nhau. Ấn chuyển pháp luân được thể hiện qua pho
tượng chuyển pháp luân tại Lộc Uyển như sau: bàn tay phải nâng lên ngang ngực,
lòng bàn tay hướng ra ngoài, đầu hai ngón cái và ngón trỏ tiếp xúc nhau tạo nên
một vòng tròn huyền nhiệm, trong khi đó bàn tay trái được nâng nhẹ lên, lòng
bàn tay hướng vào bên trong, ngón giữa chạm nhẹ vào điểm tiếp xúc trên.
Trong một bích hoạ tại Ajaṇṭā, hai tay nâng lên ngang
ngực, tay trái nắm chéo y, ngón trỏ và ngón cái của bàn tay phải chạm vào nhau
và dường như ấn nhẹ trên ngón tay của bàn tay trái. Cũng trong thạch động này một
bức hoạ khác diễn tả hai tay nâng lên trong tư thế chuyển pháp luân, nhưng
không chạm nhau. Trong một tác phẩm nghệ thuật khác thuộc trường phái Gandhāra,
bàn tay phải co đều lại, lòng bàn tay hướng vào trong, ngón cái và ngón trỏ của
bàn tay trái đặt phần dưới của lòng bàn tay phải, các ngón khác đều co lại.
Các ấn chuyển pháp luân tại Tây Tạng và Trung Hoa đều
có nét tương đồng nhau: tay phải đặt ngang ngực, lòng bàn tay hướng ra ngoài,
ngón trỏ và ngón cái chạm vào nhau, ngón trỏ và ngón cái của bàn tay trái cũng
chạm vào nhau, lòng bàn tay hướng vào trong, đôi khi tay trái che phần dưới hoặc
che hơn một nữa lòng bàn tay phải[36].
Trong lĩnh vực nghệ thuật, hình tượng pháp luân cũng trở thành một
biểu tượng phổ biến trong các công trình kiến trúc Phật giáo. Thông thường pháp
luân được thể hiện qua hình ảnh của một bánh xe có tám nan hoa. Trục của bánh
xe tượng trưng cho giới luật, vành bánh xe tượng trưng cho trạng thái chuyên nhất
của thiền định, tám nan hoa tượng trưng cho Bát thánh đạo, và tâm điểm của bánh
xe thường đượckhắc thành bốn dòng xoắn, mỗi dòng được tô mỗi màu khác nhau để
chỉ cho bốn phương và cũng để tượng trưng cho Tứ thánh đế hay bốn đại (đất, nước,
gió, lửa)[37].
Một số biểu tượng bánh xe trong các bảo tháp, chùa chiền
của Phật giáo còn được khắc hoạ với 12, 16, 32, hay vô số nan hoa với ý nghĩa
biểu trưng cho 12 chi phần duyên khởi, 16 đặc tính của nguyên lý tánh không, 32
tướng hảo của bậc giác ngộ, và vô số tia sáng của măt trời, vô số Đức Phật
trong vũ trụ, hay vô số giáo lý, pháp môn mà Đức Phật Thích Ca đã giảng dạy.
Các tác phẩm điêu khắc từ TK I Tr. CN tại tháp Sanchi còn lưu lại hình tượng
bánh xe tượng trưng cho pháp luân. Bánh xe này được khắc hoạ một cách cân đối
và đặt trên một bệ đá hai tầng cùng với hình ảnh của nhiều người lễ bái xung
quanh.
Theo nhà khảo cổ Cunningham, bánh xe là biểu tượng
chính trên đỉnh của mỗi cổng tại tháp Sanchi[38]. Cổng phía Nam của tháp Barhut
(đầu TK I Tr. CN) cũng còn lưu lại hình ảnh bánh xe đặt trên một cái bệ bao
quanh là dáng của một ngôi điện thờ. Điều đáng chú ý là trục và vành của bánh
xe được trang hoàng với nhiều vòng hoa, xung quanh đó là cảnh những người hành
hương đi chân đất hay đi xe tứ mã đến cúng bái tại điện thờ trên.
Điều này cho thấy là bánh xe đã được dùng làm biểu tượng cho chính
Đức Phật. Trong giai đoạn đầu của nghệ thuật Phật giáo tại Ấn Độ, khi mà hình ảnh
của Đức Phật chưa được khắc hoạ, thì các chủ đề nghệ thuật chính là những di vật
gắn liền với cuộc đời của Đức Phật như là: cây bồ đề, toà kim cang, hoa sen, dấu
chân.v.v…
Nếu như những di vật này nhắc đến những sự kiện trong
cuộc đời Đức Phật thì bánh xe lại là hình ảnh tượng trưng cho chính Đức Phật, hay
nói một cách chính xác hơn, là pháp thân
của Đức phật. Điều mà chúng ta dễ nhận biết là trong các văn bản Phật học Pali,
các thuật ngữ Báo thân và Ứng hoá thân vẫn chưa xuất hiện. Riêng thuật ngữ pháp
thân được ghi lại trong những đoạn kinh quan trọng như “Như Lai có thể được gọi
là Pháp thân (Dhammakāya) hay Phạm thân (Brahmakāya)” (Trường Bộ III), hay “Ai
thấy pháp là thấy Ta (Phật)” (Tương Ưng III). Do vậy, một khi pháp luân được dùng để biểu trưng cho Đức
Phật, thì nó cũng biểu trưng cho Pháp thân của Ngài[39].
Khi nói đến nhân cách và con người của Đức Phật, kinh điển Pali thường
tôn xưng Ngài là bậc Đại nhơn (Mahāpurisa), Nhật Chủng (Ādicca-bandhu), Chuyển
Luân Thánh Vương (Rājā cakkavattī), Thiên Trung Thiên (Devātideva)…để nói lên
phẩm tính siêu việt của Ngài.
Cách tôn xưng Đức Phật là bậc Đại Nhơn hay Chuyển Luân
Thánh Vương chỉ mang tính tương đối bởi lẽ ngoài ngoài những phước báu về tướng
hảo và vẻ đẹp vốn có của một vị Đại Nhân hay của một vị Chuyển Luân Thánh
Vương, Đức Phật còn là một bậc giác ngộ, và chính vì thế Ngài đã từng khẳng định
rằng : “Ta không phải là thiên nhân, Càn-thát-bà, Dạ-xoa, hay phàm nhân.” (Tăng
Chi II). Đôi khi Đức Phật cũng được tôn xưng là Chuyển Luân Vương, nhưng vương
quốc của Ngài không phải bốn châu thiên hạ mà chính là vương quốc chánh pháp.
Có một lần Bà-la-môn Sela được chiêm ngưỡng ba mươi
hai tướng tốt của Đức Phật, ông liền tán thán Đức Phật như một vị luân vương, bậc
Điều Ngự, Đại Vương…, Đức Phật bèn đáp lại rằng Ngài cũng là vua, nhưng vương
quốc của Ngài là chánh pháp, Ngài cũng chuyển bánh xe báu (như Chuyển Luân
Vương chuyển điều khiển xe báu để cai trị thiên hạ), nhưng bánh xe pháp của
Ngài không thoái chuyển (Kinh Sela, Trung Bộ II). Nếu như bánh xe trong nền văn
hoá cổ xưa của Ấn Độ tượng trưng cho mặt trời, cho uy quyền tối thượng, cho
Chuyển Luân Thánh Vương, thì hình tượng bánh xe trong Phật giáo lại tượng trưng
cho giáo pháp của Đức Phật và cho chính Đức Phật. Chuyển Luân Thánh Vương dùng
xe báu để hàng phục các oán địch, cai trị thiên hạ, giữ yên bờ cõi, còn Đức Phật
chuyển vận bánh xe pháp để nhiếp phục, đoạn trừ phiền não trong tâm thức của
chúng sanh.
d). Biểu tượng
Pháp Luân tại Lộc Uyển
Có thể nói hình tượng pháp luân quan trọng bậc nhất hiện
còn lưu lại là pháp luân được gắn trên phần đỉnh của trụ đá được tôn trí tại Lộc
Uyển để đánh dấu nơi Đức Phật chuyển pháp luân theo sắc chỉ của vua A Dục. Vào
năm 1905 F.O. Oertel đã phát hiện ra những phần bị gãy của trụ đá này và trên
thân trụ đá này có khắc chỉ dụ của vua A Dục. Trên đỉnh của trụ đá này là tượng
của bốn con sư tử xoay về bốn hướng trông vô cùng oai hùng và mạnh mẽ.
Bên trên bốn con sư tử này là hình tượng pháp luân. Bốn con sư tử
này ngồi trên một cái trống được khắc hoạ với bốn con thú khác nhau: sư tử,
voi, bò, và ngựa. Giữa bốn con thú này là hình bốn bánh xe. Đánh giá về nét
điêu khắc phần đỉnh của trụ đá này, nhà nghiên cứu V.A. Smith đã đưa ra lời
bình phẩm như sau: “Thật khó tìm thấy ở một đất nước nào một mẫu điêu khắc thú
cổ xưa độc đáo hơn hoặc tương đương với công trình nghệ thuật tuyệt đẹp này, một
tác phẩm đã kết hợp thành công giữa phẩm cách lý tưởng và khuôn mẩu thực tế, và
được hoàn thành với từng chi tiết hết sức chuẩn xác.”[40]
Hình tượng pháp luân này tại Lộc Uyển về sau đã được
mô phỏng và khắc hoạ cùng với hình tượng của hai con nai nằm hai bên trong tư
thế tự tại, chú tâm, và hỷ lạc. Nai bên phải có dáng vẻ oai phong, mạnh mẽ tượng
trưng cho con đực và con bên trái có nét nhu mì, mềm mại của con cái. Ngoài ý
nghĩa biểu trưng cho sự kiện chuyển pháp luân đầu tiên tại Lộc Uyển, hình tượng
pháp luân và đôi nai như thế còn nói lên được cái đẹp của đời sống viễn ly, xuất
trần theo chánh pháp, cũng như tư tưởng từ bi, bất bạo động, cộng sinh, sự hài
hoà giữa con người và muôn vật, giữa hữu tình và vô tình theo giáo lý duyên
sanh và vô ngã của Đạo Phật.
Như một hồi chuông thanh thoát ngân xa mãi trong vũ trụ vô biên,
như ánh sáng của vầng thái dương lan toả khắp mọi nơi, len sâu vào những nơi tối
tăm nhất của quả địa cầu, âm vang tình thương và ánh sáng tuệ giác mà Đức Phật
đã khơi nguồn từ xứ Ba-la-nại ngày xưa đã lan toả khắp nơi trên hoàn vũ, thấm
sâu vào huyết mạch của hàng triệu con tim, từ những bậc đế vương cho đến những
kẻ khốn cùng bất hạnh.
Bánh xe pháp của Ngài đã chuyên chở những đạo sĩ khổ hạnh
như Kiều Trần Như đến cảnh giới thánh thiện, đã biến niềm đam mê dục lạc của kỷ
nữ Ambapālī thành niềm đam mê chánh pháp, đã chuyển hoá sự khát máu của Vô Não
thành niềm khát khao thánh quả, đã chuyển xoay tham vọng viễn chinh của vua A Dục
thành một cuộc chinh phục tự thân. Tuy là một Phật tử tại gia, vua A Dục đã
hoàn thành xuất sắc sứ mạng tiếp nối và chuyển vận bánh xe pháp của Đức Phật
trong khắp vương quốc mình, rồi sau đó đến những quốc gia lân cận và những miền
đất xa xôi.
Cũng chính nhà vua đã cử các sứ đoàn Phật giáo đến nhiều quốc gia
khác nhau để thực hiện sứ mạng đó. Nhờ sự chuyển vận bánh xe pháp đó của vua A
Dục, khi Ấn Độ bị các thế lực ngoại bang xâm lược, Phật giáo dù bị suy vi trên
mảnh đất quê hương, nhưng lại cắm rễ, sinh sôi và lớn mạnh trên những miền đất
khác.
Bánh xe pháp vô hình, vô tướng mà Đức Phật đã chuyển vận
tại Lộc Uyển đã được vua A Dục, vài trăm năm sau đó, cho khắc hoạ trên những trụ
đá sư tử oai phong với ước vọng là giáo pháp của Đức Phật như tiếng rống của
loài thú uy dũng này sẽ vang vọng mãi, sẽ được chuyển vận mãi cho đến tận ngàn
sau.
Điều kỳ diệu là bánh xe pháp mà vua A Dục đã cho dựng
trên trụ đá sư tử tại Lộc Uyển xưa kia đã trở thành biểu tượng thiêng liêng
trên quốc kỳ Ấn và tung bay phấp phới trên toàn cõi Ấn Độ. Hình sư tử trên đầu
trụ đá ấy cũng đã trở thành quốc huy của đất nước này. Sau khi Ấn Độ giành được
độc lập từ sự tranh đấu theo đường hướng bất bạo động do Mahatma Gandhi khởi xướng,
trong lúc hội đồng lập hiến của Ấn đang bận rộn với việc soạn thảo hiến pháp
cho đất nước, thì vấn đề lựa chọn biểu tượng cho quốc kỳ và quốc huy của Ấn đã
được các nhà lãnh đạo quốc gia bàn bạc kỷ lưỡng.
Sau một thời gian làm việc nghiêm túc, cuối cùng hình tượng sư tử
trên đầu trụ đá vua A Dục và pháp luân của Đức Phật đã được các nhà lãnh đạo Ấn
chọn làm biểu tượng của quốc gia. Vào lúc 10 giờ sáng ngày 22-07-1947 trước sự
hiện diện của tổng thống Rajendra Prasad và hội đồng lập hiến, Jawaharlal
Nehru, vị Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ độc lập đã dõng dạt tuyên bố: “Quyết nghị
rằng quốc kỳ của Ấn Độ sẽ gồm ba dải màu vàng nghệ, trắng và xanh lá cây đậm nằm
ngang cân đối nhau. Giữa dải màu trắng sẽ là một bánh xe màu xanh nước biển tượng
trưng cho Chakra.
Mẫu bánh xe này lấy theo mẫu bánh xe nằm trên đỉnh của
trụ đá đầu hình sư tử của vua A Dục tại Sarnath…Khi đề cập đến tên tuổi của A Dục,
tôi muốn các vị biết rằng giai đoạn A Dục vốn là một giai đoạn quốc tế của lịch
sử Ấn Độ. Đó không phải là một giai đoạn quốc gia nhỏ hẹp. Đó là một giai đoạn
khi mà các nhà đại sứ của Ấn Độ được gởi đi khắp nơi, đến tận những đất nước xa
xôi, không phải theo lối của một đế quốc và chủ nghĩa đế quốc, mà họ là những vị
sứ giả của hoà bình, của thiện chí và văn hoá.”[41]