-
bánh xe (Trường
Bộ III),
-
một loại vũ
khí (Bổn Sanh I),
-
hay một trong
ba mươi hai tướng tốt của bậc đại nhân (Trường Bộ II).
Thuật
ngữ này còn chỉ cho một trú xứ của hàng chư thiên và loài người mà nơi ấy hội đủ
bốn phước lành sau:
-
cư trú tại một
nơi cố định,
-
thân cận các
pháp lành,
-
hoàn thiện tự
thân,
-
và gây tạo
công đức trong đời trước.
Đôi khi danh từ cakka cũng được dùng trong các cụm từ
khác như catucakkam (Tương Ưng I) hay iriyāpatha-cakka (Luận giải Trường Bộ) để
chỉ cho bốn oai nghi của mỗi người.
Trong Phạn ngữ, chữ cakra thường xuất hiện trong các cụm
danh từ riêng để chỉ tên người (cakrapāṇi, tên của một vị Bồ tát), tên các loài
thảo mộc (cakra-vimala, cakra-s’atapattra), và tên của một rặng núi bao quanh
trái đất (cakra-vāḍa, cakravāḷa).
Vòng Luân Hồi
Chữ
cakra cũng thường được dùng trong các thuật ngữ saṃsāra-cakra hay bhava-cakra để
chỉ cho sự biến dịch, luân hồi hay
vòng hiện hữu của loài hữu tình với bốn chu kỳ: sanh, trụ, dị, diệt.
Nguồn gốc
của hình tượng bánh xe luân hồi hay vòng luân hồi, có lẽ, phát xuất từ một câu
chuyện trong kinh Thí Dụ như sau.
Tôn giả
Mục Kiền Liên, vị đệ tử đứng đầu về thần thông của Đức Phật, không chỉ hành đạo
trong cõi người mà còn thường du hoá đến các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh,
và cõi trời. Sau khi chứng kiến cảnh chúng sanh chết đi sống lại, bị tàn sát,
hành hạ trong địa ngục, cảnh muôn thú tranh giành, giết hại nhau, cảnh các loài
quỷ bị đói khát giằn vặt, cảnh thiên nhân hết phước báu bị đoạ lạc, suy vong, cảnh
loài người bị tham ái cấu xé, bức bách thảm khốc…, tôn giả bèn trở về cõi Diêm
Phù Đề (Ấn Độ) và thuật lại những điều mắt thấy tai nghe này cho bốn chúng đệ tử
của Đức Phật, khuyên họ nên ý thức đến nỗi khổ triền miên của cõi Ta Bà mà tinh
tấn tu trì hướng đến cảnh giới vô sanh an tịnh.
Một lần
nọ, khi Đức Phật trú tại thành Vương Xá, tôn giả Mục Kiền Liên cũng đem những cảnh
khổ trên để khuyến hoá các hàng xuất gia và tại gia.
Khi thấy
mọi người đang vây quanh và chăm chú lắng nghe tôn giả, Đức Phật bèn hỏi ngài A
Nan vì sao mọi người đang vây quanh tôn giả Mục Kiền Liên, khi biết được nguyên
do, Đức Phật bèn dạy: “Trưởng lão Mục Kiền Liên hay bất cứ một vị Tỳ-kheo nào
khác như trưởng lão cũng không thể cùng một lúc có mặt tại nhiều nơi (để giáo
hoá mọi người), vì thế, nên làm hình bánh xe gồm năm phần đặt ngay lối ra vào
(của tinh xá).”
Lúc ấy,
các vị Tỳ-kheo còn phân vân, chưa biết nên thiết kế bánh xe như thế nào, Đức Phật
bèn chỉ dạy như sau: năm phần của bánh xe được minh hoạ để tượng trưng cho năm
cảnh giới, ba cảnh giới phía dưới là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, hai cảnh giới
bên trên là cõi trời và người, hoạ cảnh bốn châu Đông Thắng Thần, Tây Ngưu Hoá,
Bắc Câu Lô, và Nam Thiệm Bộ cũng được thêm vào. Ở giữa là hình ảnh ba loài thú:
chim bồ câu (dụ cho tham), rắn (dụ cho sân), và heo (dụ cho si), hình ảnh giải
thoát của chư Phật và cảnh giới Niết Bàn được thể hiện qua những vầng hào
quang, hàng phàm phu được minh hoạ qua với cảnh những chúng sanh chìm nổi trong
nước, vòng bên ngoài thể hiện 12 chi phần duyên khởi theo hai chiều thuận nghịch.
Bánh xe
này thể hiện mọi chi tiết về cảnh giới luân hồi trong mọi thời, và tất cả bị nuốt
bởi (quỷ) vô thường.
Ngoài
những hình ảnh trên, hai câu kệ nói về sự hành trì theo chánh pháp để điều phục
phiền não, vượt thoát cảnh luân hồi cũng nên được khắc bên bánh xe.
Cũng
theo bản kinh này, mỗi khi đến tinh xá, các vị cư sĩ hỏi về ý nghĩa của hình tượng
bánh xe trên, có một số vị Tỳ-kheo không giải thích được. Vì thế, theo lời dạy
của Đức Phật, các vị Tỳ-kheo bèn chọn những vị tri sự có đầy đủ kiến thức để giải
thích cho các vị cư sĩ về ý nghĩa trên mỗi khi họ thắc mắc[3].
Hình ảnh vòng luân hồi trên được thể hiện
rõ nét trong các thạch động tại Ấn Độ và rất phổ biến trong các tu viện Trung
Hoa và Tây Tạng.
Riêng tại
Tây Tạng, ngoài hình tượng trên, hình ảnh bánh xe luân hồi mới gồm sáu phần
cũng rất phổ biến. Ngoài năm cảnh giới trên, loại hình tượng mới này có thêm cảnh
giới A-tu-la, và ngoại trừ cảnh giới loài người, năm cảnh giới còn lại đều xuất
hiện hình ảnh đức Quán Thế Âm đại diện cho Đức Phật, vì lòng đại bi mà thị hiện
để độ sanh.
Ngày
nay, hình tượng vòng luân hồi thường xuất hiện tại các tu viện Phật giáo Tây Tạng
theo lối minh hoạ sau.
Giữa
vòng là hình ảnh ba con thú gà trống, rắn, và heo thứ tự ngậm đuôi của nhau.
Màu
lông của gà trống là màu đỏ tía pha vàng, tượng trưng cho sự nóng bỏng của lửa
tham dục. Xét về tính khí, gà trống là loài vật vừa tham nhưng cũng rất kiêu
căng, nên được xem là biểu tượng cho tham dục. Miệng gà trống ngậm đuôi của con
rắn lục, tượng trưng cho sự tham lam vô hạn của chúng sanh, và chính vì quá
tham lam, nên chúng sanh không bao giờ cảm thấy thoả mãn, từ đó sân hận phát
sanh.
Sân hận
là độc tố làm tinh thần xung động, làm cho tâm thức luôn âm ỉ hận thù và cuối
cùng bộc phát qua lời nói thô lỗ và hành vi thiếu tự chủ.
Ác nghiệp
như thế cứ mãi tuôn trào, dai dẳng mà không gì ngăn cản được, cũng như cơ thể
thuôn dài của rắn.
Màu
xanh của rắn biểu thị cho sự lạnh lùng, thiếu cảm thông với mọi người.
Rắn là
một loài vật giết hại loài khác bằng nọc độc và bằng cách bóp nghẹt, đó cũng là
đặc điểm của sân.
Tiếp
theo rắn là một con heo với dáng vẻ nặng nề.
Đuôi của
heo bị miệng rắn ngậm chặt, và heo nhoài người sang nguộm đuôi của gà trống.
Heo này có màu đen tượng trưng cho si. Vẻ nặng nề của nó biểu trưng cho sự hôn
trầm, uể oải của tâm và thân. Heo là một loài tham ngủ và hay tìm thức ăn trong
những nơi hôi bẩn, không phân biệt sạch nhơ, cũng như khi đã bị chìm đắm trong
vô minh, thiếu chánh kiến, chúng sanh thường tìm cầu dục lạc trong cặn bã danh
vọng của cuộc đời.
Ba loài
thú trên được vẽ trên nền màu xanh da trời để biểu trưng rằng dù tham, sân, si
sâu nặng, khó trừ, nhưng bản chất của chúng là không, là vô tự tánh, và chẳng
thường còn.
Vòng lớn
kế tiếp của bánh xe là các cảnh giới chúng sanh, vòng ngoài cùng là các mắc
xích tượng trưng cho 12 chi phần duyên khởi. Cả bánh xe này bị một quái vật khổng
lồ, tức quỷ vô thường nắm chặt, ám chỉ rằng vạn vật trong vòng luân hồi đều bị
vô thường chi phối.
http://www.daophatngaynay.com/vn/phat-phap/buoc-dau-hoc-phat/dd-dao-phat/11037-Hinh-tuong-banh-xe-trong-Phat-giao.html