Thứ Hai, 13 tháng 8, 2012

Vô thường 3


                                         VÔ THƯỜNG

1. Định nghĩa:

Vô thường có nghĩa là luôn luôn thay đổi, không bền chắc, không đứng yên, không thường còn. Không có một sự vật hiện tượng nào có thể duy trì được tính chất đồng nhất bất biến, chúng luôn luôn thay đổi. 



Kinh Tạp A-hàm, số 456, ghi: “Nhất thiết hành vô thường, thị sanh diệt pháp”: Tất cả các hành đều vô thường, là pháp sanh diệt. Vô thường nghĩa là vận động biến dịch. Các hành là chỉ cho tất cả pháp hữu vi, tất cả các sự vật hiện tượng do nhân duyên mà sanh ra, chúng nương tựa vào nhau mà tồn tại và luôn luôn biến dịch, thay đổi. Nói một cách khái quát là tất cả mọi sự vật hiện tượng được tập hợp nên đều vô thường, luôn luôn vận động, luôn luôn thay đổi, tồn tại ở trong sự sanh diệt biến dịch như dòng nước chảy, ngọn lửa cháy, luồng gió thổi. Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường. Hữu vi là những pháp thuộc thế giới hiện tượng. 

2. Nội dung:

Vô thường là một quan niệm căn bản của đạo Phật. Tất cả các pháp, mọi sự mọi vật đều không phải là một thực thể nằm yên bất biến, chúng không mãi mãi ở yên trong một trạng thái nhất định, mà chúng luôn luôn thay đổi, xoay chuyển không ngừng. Hiện hữu là một dòng sanh diệt liên tục. Sự thay đổi, sinh diệt, diệt sinh xảy ra từng giây phút, từng sát-na một. Vô thường là một định luật chi phối tất cả sự vật, từ thân, tâm, cho đến mọi hoàn cảnh. 

Trên thế giới có rất nhiều nguồn tư tưởng nói đến tính vô thường, Đông cũng như Tây. Chẳng hạn, nhà tư tưởng, triết học gia Khổng Tử khi đứng trên bờ sông và nhìn xuống nước, ông cũng “ngộ” ra được lý vô thường: “Thệ giả như tư, bất xả trú dạ”? Nghĩa là “trôi chảy hoài, ngày đêm không thôi như thế này ư?”. Điều này chứng tỏ Khổng Tử cũng dạy về vô thường. Heraclite, một triết gia phương Tây cũng có cái thấy về vô thường. Ông nói: “Không ai có thể tắm hai lần trong một dòng sông”. Chúng ta xuống sông tắm rồi đi lên, khi xuống lại lần thứ hai thì dòng sông đã khác rồi. Thực ra là dòng sông đã khác trong khi ta đang tắm! Tóm lại, các bậc hiền triết nhiều đời đều đã nhìn thấy thế giới hiện tượng là vô thường. 

Tuy nhiên, giáo lý vô thường trong đạo Phật có khác với ý niệm về vô thường vẫn có ở ngoài đời. Sự khác biệt đó, trước hết, theo nguyên tắc tương tức và tương nhập, giáo lý vô thường phải phản ánh những giáo lý khác của đạo Phật. Tiếp đến, vô thường là một nhận thức về sự thật của thế giới hiện tượng. Sự thật của thế giới hiện tượng là chúng luôn luôn vận động, luôn luôn thay đổi mà không bao giờ đứng yên, tồn tại bất biến, nó luôn luôn diễn tiến theo nguyên tắc thành, trụ, hoại, không, hay sanh, trụ, dị, diệt, và đạo Phật nhận thức đúng sự thật như thế, không thêm không bớt. 

Có ba lãnh vực được đề cập khi nói đến vô thường, đó là thân, tâm và hoàn cảnh. Ba lãnh vực như vậy cũng đã bao hàm hết mọi hiện tượng giới hay tất cả các pháp hữu vi rồi. 

a. Thân vô thường:

Thân thể là yếu tố sắc uẩn trong năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Sắc là phần vật chất, gồm bốn yếu tố (tứ đại), là đất (những phần cứng như xương, thịt…), nước (chất lỏng như máu, nước mắt…), gió (là những thể khí như hơi thở…), và lửa (hơi ấm, nhiệt lượng). 

Mỗi phút giây thân thể ta đều có sinh và có diệt. Khoa học cho biết trong một giây có hàng triệu tế bào trong cơ thể được sinh ra và cũng có hàng triệu tế bào bị chết đi. Khi số lượng tế bào sinh ra lớn hơn số tế bào chết đi thì con người phát triển, lớn dần, em bé thành người lớn. Phát triển cho đến một lúc số lượng tế bào sinh ra cân bằng với số lượng tế bào chết đi thì con người bước vào giai đoạn trung niên. Và cuối cùng, khi số tế bào sinh ra ít hơn số tế bào chết đi, con người bắt đầu già. Rõ ràng sự phát triển của cơ thể con người đi theo đúng nguyên tắc sanh, trụ, dị, diệt. 

Cơ thể chúng ta thay đổi mỗi ngày, mỗi phút, mỗi giây. Nhờ sự thay đổi, vô thường đó mà em bé thành người lớn. Và cũng chính sự thay đổi đó làm người lớn thành người già, và cuối cùng phải chết! Sự thay đổi đó diễn ra trong tức sát-na, gọi là sát-na sanh diệt. 

Chúng ta quán chiếu, thân thể này do tập hợp các yếu tố tinh cha, huyết mẹ và vay mượn tứ đại cùng với các điều kiện khác mà hình thành. Dù được tứ đại xây dựng nên, nhưng bốn yếu tố này lại lắm khi xung khắc với nhau cho nên trong chúng ta không ai thoát khỏi được cái vô thường, cái già và cái bệnh. Sự vật sớm còn tối mất, có thể chỉ một giây phút sau là đời này đã chuyển qua đời khác, khác gì hạt sương xuân, khác gì tia nắng sớm? Cây mọc bờ nước, dây leo miệng giếng, thân này cũng thế, đâu có thể có mặt lâu dài? Ngày tháng đi mau, mỗi giây phút chỉ ngắn như một sát-na, đời trước cách đời sau chỉ một hơi thở, vậy thì tại sao chúng ta lại ngồi yên để cho cuộc đời trôi qua một cách oan uổng đáng tiếc như vậy? 

b. Tâm vô thường:

Hoạt động tâm lý của con người cũng vô thường, niệm niệm sanh diệt không ngừng. Kinh Tạp A-hàm, số 289 ghi: "Tâm ý thức ngày đêm chuyển biến trong từng khoảnh khắc giống như khỉ vượn chuyền cành". Luận Duy Thức nói: “Hằng chuyển như bộc lưu”, tâm thay đổi nhanh chóng như dòng thác chảy. Đây là ấn tượng được cảm nhận trong lúc trực quán các hiện tượng vật lý và tâm lý con người. Sự sanh diệt biến hóa của tâm diễn ra trong từng sát-na, không có thời gian dù một niệm tạm dừng. Kinh An Ban Thủ Ý ghi: "Khoảng thời gian búng ngón tay, tâm có 960 lần chuyển biến". 

Thật vậy, tâm niệm của chúng ta thay đổi trong từng phút từng giây, chợt vui, chợt buồn, thương đó rồi giận đó, hết nhớ chuyện này đến nhớ chuyện kia, không khi nào tâm lắng đọng, bặt tư duy, dừng suy nghĩ. 

c. Hoàn cảnh vô thường:

“Sông kia giờ đã nên đồng, chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai”. Vật đổi sao dời, bãi bễ nương dâu, đó là những hình ảnh cho thấy hoàn cảnh xung quanh chúng ta thay đổi khôn lường. Biết bao triều đại đã đổi thay, biết bao cảnh thăng trầm, vinh nhục? “Ngẫm nhìn lại cuộc đời như giấc mộng, được mất bại thành bỗng chốc hóa hư không”. 

Luận Câu Xá, nói: "Các pháp hữu vi vừa có liền không. Nếu ở chỗ này sanh thì ở chỗ này diệt, không cho từ chỗ này chuyển đến chỗ khác". Luận Thành Thật nói: "Vì các pháp niệm niệm diệt nên không cho từ chỗ này chuyển đến chỗ khác". Mọi sự mọi vật xung quanh ta thay đổi liên tục, không có một sự vật hiện tượng nào đứng yên, chúng đang sanh diệt trong tự thân của nó. 

3. Phương pháp thực tập: quán vô thường

Giáo lý vô thường trong đạo Phật không phải là một lý thuyết, không phải là một luận thuyết gì hết. Nó là một sự thật. Và sự thật này đòi hỏi chúng ta phải thực tập, phải quán chiếu để thể nhập, để chứng ngộ. 
Trong kinh điển thường đem tính vô thường ngay nơi sanh liền diệt của vạn vật tỷ dụ như ánh chớp, lửa nháng, sương mai, bọt nước. Kinh Kim Cang nói tất cả pháp hữu vi "như sương mai, như ánh chớp". Kinh Lăng Già cho rằng các pháp hữu vi "không thật, mau như điện chớp, thế nên nói là như huyễn". Sự thật là vậy nhưng không phải ai cũng thấy và chấp nhận, đó là nguyên nhân của khổ đau, hệ lụy. Do đó chúng ta phải thực tập để thể ngộ sự thật này. 

Trước hết là thực tập quán chiếu thân thể là vô thường. Ta từ khi cha mẹ sinh ra (sanh), rồi lớn lên, trưởng thành (trụ), một thời gian bắt đầu già nua (dị) và cuối cùng phải chết (diệt). Quá trình sanh, trụ, dị, diệt ấy là vô thường. Quá trình ấy xảy diễn trong từng giây phút. Chúng ta lớn lên từng ngày cũng có nghĩa là chúng ta đã từng chết đi từng ngày, tức là chúng ta đang vô thường, đang thay đổi. Ta hôm nay đã không phải là ta hôm qua. Phật học gọi sự thay đổi này là không phải một, không phải khác. Cũng như khi nhìn xuống dòng sông, ta thấy dòng sông không có gì thay đổi, vẫn là dòng sông ấy, đó là không phải khác, trên mặt tổng thể. Nhưng nếu quán chiếu, ta thấy tất cả lượng nước trong dòng sông giây phút trước đã không còn nữa, mà đã thay vào đó lượng nước khác rồi, dòng sông khác rồi, đó là không phải một. Thân thể ta cũng vậy. 

Mình quán chiếu thân thể như thế không phải để thấy cái thân thể này vô thường, không bền chắc rồi mình hủy hoại nó. Hiểu như vậy là hiểu sai về giáo lý vô thường. Cho thân này là thường còn là một tà kiến, mà chấp thân này là vô thường, đoạn diệt cũng là tà kiến. Đức Phật dạy mình quán chiếu thân thể là vô thường, nó rất dễ mất, để mình đừng chấp thủ, đừng luyến ái mà khổ đau. Ngược lại, mình phải sử dụng tấm thân mong manh khó được này vào mục đích tìm cầu giải thoát, để mình đừng vì tấm thân tạm bợ này mà tạo nghiệp bất thiện, gây khổ đau lâu dài về sau. Mình phải sử dụng cái thân này như sử dụng một chiếc thuyền, gọi là thuyền pháp thân, để mình bơi qua dòng sông sanh tử, bằng những việc làm có ý nghĩa, lợi mình, lợi người, đưa đến an lạc, hạnh phúc. 

Quán chiếu tâm vô thường cũng như thế. Phật học, xuất phát từ quan điểm giá trị nhân sinh của tôn giáo, nhận thức năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), các hành vô thường là khổ. Kinh Tạp A-hàm, số 437 ghi: "Vì tất cả các hành là pháp biến dịch, nên ta nói hễ có sở thọ thì đều là khổ". 

Sở thọ tức là các cảm thọ, cảm giác mà mình cảm nhận được. Tựu trung thì có ba: cảm thọ khổ, cảm thọ vui, và cảm thọ trung tính, không khổ không lạc. Tất cả các cảm thọ ấy đều vô thường, luôn luôn thay đổi. Rõ ràng không ai vui hoài mà cũng chẳng ai khổ mãi. Cuộc sống của chúng ta là một chuỗi dài tiếp nối những niềm vui và nỗi buồn, đan xen giữa khổ đau và hạnh phúc. Tất cả đều lặng lẽ trôi qua. Tâm niệm chúng ta luôn luôn thay đổi, sát-na sanh diệt. 

Qua lời Phật dạy, chúng ta thấy chẳng những các khổ thọ trong cuộc sống con người là khổ, mà ngay cả lạc thọ cũng đều vô thường nên cũng là khổ. "Các thọ đều là khổ". Thế nhưng, lời dạy này của đức Phật dễ gây ngộ nhận khi suy nghĩ một chiều. Bởi vì, khổ hay không còn tùy thuộc vào nhận thức của con người. Sự thật các pháp là vô thường mà cho rằng thường hằng, không thay đổi, đó là nguyên nhân của khổ đau. Sự vật luôn thay đổi mà chúng ta tưởng là thường tại, chúng ta muốn chúng không thay đổi, như muốn trẻ mãi không già… Chính nhận thức và ước muốn sai lạc đó làm phát sinh đau khổ. Ta đau khổ không phải vì mọi chỗ mọi vật vô thường biến đổi, băng hoại mà ta khổ não chính vì chủ quan tham đắm những thứ mình ham thích không ở với mình. 

Hoàn cảnh chúng ta sống cũng phải quán chiếu để thấy được tính vô thường của nó. Hoàn cảnh ở đây là chỉ cho tất cả mọi sự vật hiện tượng, từ sơn hà đại địa cho đến cành cây ngọn cỏ xung quanh ta, tất cả đều vô thường, biến đổi. Có người nhìn thấy ngọn núi nơi quê mình sinh ra, trải qua mấy mươi năm, vẫn còn thấy nó sừng sững ở đó, nên không tin rằng ngọn núi vô thường. Thực ra tất cả đang thay đổi, có điều quá trình thành, trụ, hoại, diệt của mỗi sự vật hiện tượng xảy ra trong khoảng thời gian dài hay ngắn mà thôi. Dù dài hay ngắn, tất cả đều biến đổi trong từng sát-na. 

Vì sự vật biến chuyển không ngừng cho nên sự vật không duy trì được tính cách đồng nhất tuyệt đối của nó. Vô thường vì vậy là một tên khác của vô ngã. Đứng về mặt thời gian, sự vật là vô thường, đứng về mặt không gian, sự vật là vô ngã. Vô thường cũng có nghĩa là vô tướng (còn gọi là không) vì thực tại của vạn hữu thoát ra ngoài mọi khái niệm và ngôn từ. Vô thường cũng là Duyên khởi, vạn vật do nhân duyên nương vào nhau mà sinh khởi và tồn tại. Kinh Tạp A-hàm ghi: “Sắc là vô thường. Nhân và duyên sanh ra các sắc cũng vô thường. Vậy, các sắc được sanh từ nhân và duyên vô thường, làm sao có thể là thường được”? Hơn nữa, “sắc không phải là ngã. Nếu sắc là ngã, không nên ở nơi sắc mà bệnh, khổ sanh và cũng không thể có ước muốn khiến như vậy hay không như vậy đối với sắc. Vì sắc là vô ngã cho nên ở nơi sắc có bệnh, khổ sanh và nó cũng có ước muốn khiến như vậy, hay không như vậy đối với sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy”. 

Hiểu thấu vô thường là có trí tuệ biết tới chỗ cốt lõi bên trong của vạn hữu gọi là vô ngã trí. Nói vô ngã là nói về không gian của một hiện tượng, nói vô thường là nói về thời gian của một hiện tượng. Hiểu thấu tính vô thường biến động trong vạn vật thì ta hết u mê bám víu. Ta đạt  được đức Thường của Niết-bàn thì ta có phân biệt tốt xấu ngon dở nhưng không bị dính khắn vào cảm giác, vì ta có trí tuệ biết rằng nó là vô thường biến đổi, không nắm chắc bởi thói quen một chiều tham đắm, đòi hỏi. 

Quán chiếu về thực tướng vô thường của cuộc đời để nhận thức được rằng tất cả mọi sự vật đều có ngày phải tàn hoại, tan rã. Do đó giúp cho ta biết quý trọng từng giờ phút của sự sống, biết sống trong chánh niệm. 

Như đã nói, nguyên nhân của khổ là sự vật vô thường mà chúng ta tưởng là thường. Trong kinh Đại Bảo Tích có kể câu chuyện con chó bị ném cục đá, nó chạy theo cục đá mà sủa, vì tưởng cục đá là nguyên do làm nó đau. Nó đâu biết rằng nguyên nhân làm nó đau là người ném cục đá. Cũng vậy, vô thường không gây ra khổ, mà chính vì nhận thức sai lầm cho những gì vô thường là thường tại cho nên ta khổ. Khi có sức khỏe mà không ý thức được tính cách vô thường của thân thể thì ta có thể đánh mất sức khỏe. Ý thức về vô thường giúp ta biết bảo vệ sức khỏe, biết ăn, uống, làm việc một cách điều độ và giữ gìn thân thể của mình. Vậy ý thức về vô thường có thể đưa tới hạnh phúc. Nhiều người đã sống qua tuổi trẻ nhưng chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc trong tuổi trẻ của mình, vì họ không ý thức về vô thường. Mình tưởng như mình sẽ trẻ hoài, ai ngờ ngoảnh qua ngoảnh lại vài cái, tuổi trẻ đã đi đâu mất

Cho nên thực tập vô thường quán giúp cho ta biết quý trọng giờ phút của sự sống. Và khi ta đã biết quý trọng từng giờ phút của sự sống, thì ta cũng biết chăm sóc và vun tưới, để nuôi dưỡng những gì hiện ta đang là và đang có. Tuổi trẻ như thế mà người thương cũng thế. Ý thức được rằng mình có một người thương hay mình đang thương một người, ta đang có hạnh phúc. Nhưng ta phải biết rằng tình thương đó cũng vô thường. Nếu người đang thương yêu không nuôi dưỡng hiểu biết và tình thương của chính mình thì tình thương cũng mòn mỏi rồi tiêu diệt. Nếu người được thương yêu không biết bảo trì tính dễ thương và tươi tắn của mình thì cũng sẽ đánh mất lòng thương yêu. 

Quán vô thường là một việc làm vô cùng quan trọng. Bởi vì, thứ nhất, nó cho chúng ta biết những gì đang có trong giờ phút hiện tại là vô cùng quý giá và đẹp đẽ, chúng ta phải trân trọng, giữ gìn cho ta và cho những người xung quanh ta. Thứ hai, khi thấy tình trạng hiện tại không được như ý thì chúng ta cũng không chán nản. Sự vật vô thường, nên cho ta niềm tin mọi việc đều có thể thay đổi. Nếu chúng ta biết cách chuyển hóa thì ngày mai tình trạng sẽ thay đổi. Một em học sinh ngang ngạnh, vì sự thật em này vô thường và vô ngã, nên ta tin rằng có thể giáo dục em trở thành người tốt. Nhưng một em học sinh ngoan, mình biết rằng em này cũng vô thường vô ngã, nên mình phải thường xuyên chăm sóc, giữ gìn để cái dễ thương của em không mất. Đó là bài học vô cùng giá trị từ vô thường. 

Tóm lại, kết quả của sự thực tập vô thường quán, có thể rút ra như vài điểm như sau: 

1. Vô thường quán giúp cho ta ý thức được cái gì đang có trong giây phút hiện tại là quý giá, ta phải trân trọng chăm sóc, vun tưới, nuôi dưỡng. 

2. Khi thấy tình trạng hiện tại không được như ý thì ta cũng không chán nản. Sự vật vô thường, nếu ta biết cách chuyển hóa thì ngày mai tình trạng sẽ thay đổi. 

3. Thấy được tự tánh vô thường của vạn vật, chúng ta có thể dứt trừ được tham ái, giữ được tâm bình thản trước hoàn cảnh đổi thay bất ngờ, những vô thường xảy đến không làm xáo động được tâm mình. Có được sự an tịnh trong tâm, không đi tìm những dục lạc tạm bợ và đi tìm hạnh phúc chân thật, thường còn. 

4. Quán chiếu về tính vô thường của vạn vật có công năng trừ diệt si mê, không phải là để ta chán ghét mọi vật, mà là để ta tiếp xử với vạn vật với tuệ giác, nghĩa là không với thái độ tham đắm và vướng mắc. 

4. Kết luận:

Kinh Tạp A-hàm nói: Đối với sắc (thọ, tưởng, hành, thức) không biết, không rõ, không đoạn tận, không ly dục, tâm không giải thoát, thì không thể đoạn trừ khổ não, không vượt qua khỏi sự sợ hãi về sanh, già, bệnh, chết. Do đó, đức Phật khuyên các Tỳ-kheo phải luôn quán chiếu để thể ngộ 5 uẩn là vô thường: “Các ông hãy quán sát sắc (cũng như thọ, tưởng, hành, thức) là vô thường”. Quán sát như vậy được gọi là quán sát chân chánh. Hiểu biết như vậy được gọi là biểu biết chân chánh. Khi đã quán sát và hiểu biết chân chánh thì sẽ sanh ra nhàm tởm. Khi đã nhàm tởm thì dứt sạch tham muốn và ưa thích. Sự dứt sạch hỷ tham được gọi là tâm giải thoát. 

Đức Phật khẳng định: “Ai đối với sắc (thọ, tưởng, hành, thức) mà yêu thích, thì đối với khổ cũng yêu thích”. Một khi sống trong khổ đau mà cảm thấy yêu thích thì còn mong gì sự giải thoát? Thái độ vui thích trong khổ đau đó gọi là vô tri hay vô minh: “Vô minh là không biết, không biết tức là vô minh. Không biết những gì? Sắc là vô thường, mà không biết như thật sắc là vô thường. Sắc là pháp ma diệt mà không biết như thật sắc là pháp ma diệt. Sắc là pháp sanh diệt mà không biết như thật sắc là pháp sanh diệt”. Ngược lại là trí hay minh. Chỉ có người trí mới mong giải thoát khỏi khổ đau: “Ai không yêu thích sắc (thọ, tưởng, hành, thức), thì sẽ không thích khổ. Ai không yêu thích khổ, thì đối với khổ sẽ được giải thoát” (Kinh Tạp A-hàm). 

Tóm lại, “chỉ có sự đổi thay mới không bao giờ thay đổi” (vô thường thị thường – Kinh Niết Bàn). Cho nên, “Đã biết là vô thường, sao lại còn phiền não”? Đó thái độ sống thanh thản, bình yên trước sự thật của cuộc đời.
http://chuavanhanh.free.fr/index.php?menu=11&ref=3561