Vô thường
Vô thường (無常; sa. anitya; pi. anicca) nghĩa là
"không chắc chắn", "thay đổi", "không
trường tồn". Vô thường là một trong ba tính chất (Tam pháp ấn, sa. trilakṣaṇa) của tất cả sự vật. Vô thường là đặc tính
chung của mọi sự sinh ra có điều kiện, tức là thành, trụ, hoại không (sinh, trụ, dị, diệt) . Từ tính vô thường ta có thể suy luận ra hai đặc tính kia là Khổ (sa. duḥkha) và Vô
ngã (sa. anātman).
Giáo lý vô thường rất
quan trọng cho toàn cơ sở triết lý và thực hành trong Phật giáo. Nó mang
đến một sự xác nhận như một sự phát hiện chân chính, đó là tất cả những hiện
tượng – dù thuộc tâm lý, hay thuộc ngoại cảnh tự nhiên, không có ngoại
hạng – đều là vô thường. Mặc dù chân lý này hoàn toàn hiển nhiên, có thể chứng
nghiệm được mọi nơi, mọi lúc, nhưng chúng ta vẫn bị màn vô minh (sa.
avidyā) vây phủ, không nhận thức được chân lý này một cách chân chính. Sự
chuyển tiếp từ trạng thái không hiểu biết đến trạng thái ý thức (và thừa nhận)
tính chất vô thường của vạn vật, cùng với sự thừa nhận hai tính chất kia, lập
nên con đường tu học, và con đường này được Phật vạch ra trong
giáo lý của mình.
Cách thể hiện của vô thường
Có nhiều dạng trình bày
tính chân xác có giá trị chung của nguyên lý vô thường. Bằng một cách minh họa,
ảnh hưởng của thời gian được so sánh với bánh xe của một chiếc
xe đang chạy (chỉ chạm đất ở một khoảnh khắc nhất định nào đó), với một khe
suối luôn luôn tuôn chảy, với một bọt nước, một dương diệm, âm thanh của một chuông đồng.
Trong lúc thiền quán, chúng ta có thể xác nhận chân lý vô thường khi chứng kiến
tư duy và cảm nhận không bao giờ giống nhau, mà thay vào đó, luôn nằm trong một
dòng chảy (ví dụ như khoảnh khắc thật ngắn của một mối tư duy duy nhất không
bao giờ đứng yên, mà luôn chuyển tiếp đến một mối tư duy kế tục).
Nếu quan sát một cách
phân tích thì vô thường được xem như một sự thật, là vạn vật tồn tại trên cơ sở
lệ thuộc vào cái khác nào đó, phát sinh từ cái khác nào đó và chuyển biến thành
cái khác nào đó. Không một vật nào tồn tại độc lập, không vật nào thường còn.
Chính ngay ở điểm này thì Niết-bàn được hiểu như thuyết tương
phản trực tiếp của vô thường, có nghĩa là Niết-bàn mang những tính chất thường,
lạc, ngã, tịnh và như vậy – khác với trường hợp các pháp thế
tục – đáng được thành đạt hơn. Giáo lý vô thường tương quan với giáo lý Duyên
khởi ở mặt giáo lý này xác nhận một "nhân duyên móc đầu của vạn
vật" và "vạn vật nếu có một khởi đầu cũng phải có một chung kết";
giáo lý vô thường xoay tầm nhìn của chúng ta về sự chung kết của vạn vật. Ý
nghĩa tối trọng của vô thường được làm sáng tỏ nếu chúng ta nhớ đến những lời
cuối của Phật: "Hoại diệt là bản chất của chư hành, hãy cố
gắng hết lòng." (pi. vayadhammā saṃkhārā, appamādena sampādethāti).
Thực hành
Như một kết quả của tất
cả những điểm nêu trên, Phật giáo dạy chúng ta phương pháp Quán vô thường (pi.
aniccānupassanā) để chứng nghiệm nguyên lý vô thường này. Truyền thống Phật
giáo cho rằng, nếu việc thực hành quán vô thường này chỉ kéo dài như thời gian
của một cái khảy tay thì nó hoàn toàn vô bổ, và qua đó cho thấy chúng ta ít
quan tâm đến khái niệm vô thường như thế nào. Việc nhận thức nguyên lý vô
thường không phải để thoả mãn tri thức. Nó rất quan trọng và thực tiễn, vì có
thể giải thoát con người ra khỏi sự bám chặt vào các đối tượng (thuộc tâm thức
cũng như ngoại cảnh). Nếu vạn vật vô thường thì chúng cũng không thật có giá
trị, và đây cũng là lý do vì sao chúng không đáng được lưu ý. Đặc biệt là người
ta nhấn mạnh đến tính vô thường của thân thể, cảm nhận và các tầng lớp tâm thức
(khổ, lạc và trung tính), vì chúng không những là đối tượng của kinh nghiệm
chúng ta thường có, mà cũng là những kênh mạch mà qua đó, các đối tượng trong
thế gian được chúng ta nhận thức.
Quá trình quán
chiếu vô thường bao gồm "sự chú ý" đến sự xuất hiện của một
đối tượng đã được đề ra (để quán chiếu), và sự "xác định" tính "tùy
thuộc" cũng như "nguyên nhân" của nó; sau đó ta "chú
ý" đến sự tiêu giảm cũng như diệt vong, và nhận thức được tính chất "tạm
thời" của nó. Nơi đây, một đối tượng được đề ra trước đây không đơn thuần
được "thấy" là vô thường, mà còn được "diễn sinh" từ một cơ
sở sự thật, là nó tồn tại trên cơ sở tùy thuộc vào một đối tượng khác và chính
đối tượng khác này cũng vô thường. Ví dụ như "cảm nhận" là vô thường
vì tùy thuộc vào "thân" cũng là vô thường, và v.v... Quán vô thường
là một quá trình mà qua đó, hành giả đi từ cái biệt thể đến cái tổng thể, và
ngược lại, từ tổng đến biệt thể, cho đến khi đạt được nhận thức sâu sắc, tức là
trí huệ (sa. prajñā), là "tất cả đều vô thường" (sa. sarvam anityam).
Trong thiền định vô thường phải được tu tập đến mức cao nhất gọi là thể nhập.
Thể nhập là trạng thái người hành thiền luôn biết rõ như thật thế giới bên
ngoài và tự thân là vô thường để không còn bám víu vào những gì đang hiện hữu
kể cả tưởng (tưởng là những suy nghĩ ở trong đầu). Nông hay sâu trong phép quán
có thể ví dụ như sau: chúng ta biết Chùa Một Cột nằm ở đâu, đẹp xấu làm sao,
tại vị trí nào của Hà Nội. Một người không biết, nếu ta có chỉ cho rằng, nó ở
chố này, chỗ này, như thế này, hôm sau có ai hỏi người ấy đã quên mất, hoặc nói
lại một cách không rành mạch, và không thể chỉ vì người ấy đâu có biết rõ. Còn
một người đã biết rõ thì dù ai có nói khác đi, hay đẹp hoành tráng đến mấy, thì
người ấy có tin không? Không thể tin phải không, vì người ấy đã quá thạo, quá
rõ, quá chắc chắn về nó. Như vậy là sự tu tập đã được thể nhập, sẽ nhận ra giải
thoát là gì. Điều này không gì có thể thay đổi được!
Giá trị của tri kiến vô thường
Nếu đạt được tri
kiến về nguyên lý vô thường thì nhà Phật gọi đó là Chính tri kiến (sa.
samyagdṛṣṭi), hành giả bước nhập Thánh
đạo (sa. āryamārga), vì vậy tri kiến vô thường được xem là tri kiến
của bậc Dự lưu (sa. śrotāpanna), thánh quả thứ nhất trên con đường tu học.
Tri kiến vô thường chính
là sự đập tan tất cả những tà kiến vì mỗi cấu trúc của một hệ thống siêu nhiên
tất nhiên phải lập cơ sở trên một khái niệm, một kiến giải "trường tồn"
nào đó, hoặc một nhân tố "trường tồn" nào đó chính bên trong nó. Thế
nên, việc thừa nhận nguyên lý vô thường chống lại khuynh hướng kiến lập các kết
cấu gán vào hiện thật.
Truyền thống A-tì-đạt-ma tìm
cách đưa ra nguyên do và một cách giải thích cho tiến trình của giáo lý vô
thường bằng cách đề xuất lý thuyết về khoảnh khắc của sự vật (sa. kṣāṇikavāda), xác định độ ngắn dài của một khoảnh khắc và chính vì vậy, theo các trường phái Đại thừa, họ rơi vào cạm bẫy của việc lập nên một
lý thuyết siêu nhiên dành cho một cái gì đó với mục đích uyên nguyên trước đây
là tiêu diệt các lý thuyết như vậy. Mặt khác, Đại thừa nhấn mạnh tính chất tổng
quát và xuyên suốt của nguyên lý vô thường để đề cao tính "tương đối"
của vạn vật. Đây là một cách diễn giảng có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển
và kiến lập giáo lý tính Không sau này.