Chủ Nhật, 15 tháng 9, 2013

Quán chiếu thân thể

Thích Nhất Hạnh
Hành trì thiền quán là để đạt tới giải thoát và an lạc. Giải thoát và an lạc là hai yếu tố có liên hệ mật thiết với nhau: có giải thoát thì có an lạc, giải thoát càng lớn thì an lạc càng lớn. Nhưng giải thoát và an lạc không phải là những gì xa vời mà ta chỉ có thể đạt tới sau một thời gian thực tập lâu dài, như mười năm, hai mươi năm, hay ba mươi năm. Thực tập thiền quán, ta có thể đạt tới giải thoát và an lạc ngay trong giờ phút ta đang thực tập, dù mức độ giải thoát và an lạc ấy còn chỉ là khiêm nhượng. Tuy khiêm nhượng, những yếu tố giải thoát và an lạc ấy là nền tảng cho những giải thoát và an lạc lớn lao hơn. Tập thiền quán là tập quán sát để thấy và hiểu sâu được vào lòng sự vật. Nhờ cái thấy và cái hiểu đó mà ta đạt tới giải thoát và an lạc. Những giận hờn, lo lắng và sợ hãi của ta chẳng hạn đều đang làm cho ta khổ đau. Muốn giải thoát khỏi chúng, ta phải quán sát bản chất của chúng. Bản chất của chúng là vô minh, nghĩa là sự thiếu sáng suốt. Khi ta hiểu lầm một người bạn chẳng hạn, ta giận hờn, và vì giận hờn ta khổ đau. Quán sát thực tại cho sâu sắc, ta đánh tan được sự hiểu lầm đó, và những khổ đau của ta tan biến và ta tức khắc có an lạc.

Quán niệm trước tiên là phát khởi ý thức về đối tượng mà ta muốn quán niệm và sau đó là quán chiếu về đối tượng ấy. Quán niệm như vậy, có nghĩa là ý thức và quán chiếu. Niệm (Sati, Phạn: Smrti) có nghĩa là đi sâu vào lòng đối tượng ấy mà thẩm sát. Trong quá trình ý thức và quán chiếu ấy, dần dần ranh giới giữa chủ thể quán sát và đối tượng quán sát bị xoá bỏ, chủ thể và đối tượng trở thành nhất như. Đây là đặc điểm căn bản của thiền quán. Ta chỉ có thể hiểu được khi ta đi vào và đồng nhất ta với đối tượng. Ta không bằng lòng đứng ngoài để quán sát. Vì vậy, kinh văn luôn luôn nhắc tới quán niệm thân thể trong thân thể, quán niệm cảm thọ trong cảm thọ, quán niệm tâm ý trong tâm ý, quán niệm đối tượng tâm ý trong đối tượng tâm ý.

Bụt đã nói kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm cho các vị khất sĩ và nữ khất sĩ nghe. Nhưng không phải vì vậy mà ta có thể nói rằng phép quán niệm xứ là để dành cho người xuất gia. Sự thật là tất cả mọi người đều có thể thực tập phép quán niệm xứ trong đời sống hàng ngày của mình. Nếu người xuất gia có thể thực tập phép quán này trong khi đi, đứng, nằm, ngồi... thì người tại gia cũng có thể thực tập phép quán này trong khi đi, đứng, nằm, ngồi... ai trong chúng ta mà lại không đi, đứng, nằm, ngồi... trong cuộc sống hằng ngày? Điều quan trọng nhất là hiểu những nguyên tắc căc bản hướng dẫn công việc thực tập để có thể áp dụng vào nếp sống hiện tại, một nếp sống khá khác lạ với nếp sống của Bụt và các vị khất sĩ trong một xã hội cách chúng ta trên hai mươi lăm thế kỷ. Đọc kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm, ta phải đọc với con mắt của con người thời đại chúng ta thì ta mới có thể phát kiến ra được những nguyên tắc căn bản có thể giúp ta thiết lập những phương cách thực tập hữu hiệu.

Lĩnh vực thứ nhất của quán niệm là lĩnh vực thân thể, gồm có hơi thở, tư thế của thân thể, động tác của thân thể, những bộ phận của thân thể, những yếu tố tạo nên thân thể và cuối cùng là sự tàn hoại của thân thể. Trước hết, ta hãy học phương pháp quán niệm về hơi thở.


Quán chiếu thân thể

Bài tập thứ nhất: bài tập thứ nhất thở có ý thức. Quán niệm về hơi thở trước hết là phát khởi ý thức về hơi thở. Khi thở vào, ta biết là ta đang thở vào, khi thở ra, ta biết là ta đang thở ra. Thực tập như thế, hơi thở ta trở thành hơi thở có ý thức. Bài tập đầu mà kinh dạy là: “thở vào với ý thức minh mẫn là mình đang thở vào, thở ra với ý thức minh mẫn là mình đang thở ra”.

Bài tập này hết sức đơn giản, rất dễ làm, nhưng hiệu quả thì rất lớn lao. Bí quyết của sự thành công là ở chỗ trong khi thở ta chỉ để tâm tới hơi thở mà thôi, ta không để tâm vào một đối tượng nào khác. Giả dụ khi ta thở vào được nửa chừng mà ta nghĩ đến một việc khác (ví dụ: “mình quên chưa tắt đèn nhà bếp”) thì tâm ta đã tán loạn, ta đã rời bỏ hơi thở mà nghĩ tới việc khác, do đó hơi thở vào kia không trọn vẹn là một hơi thở vào có ý thức, và niệm xứ không thành công. Muốn thành công, tâm ý ta phải bám sát lấy hơi thở trong suốt quá trình của nó. Trong thời gian của hơi thở, tâm ta chỉ để ở hơi thở. Đó là ý nghĩa quán niệm thân thể trong thân thể.

Ai cũng có thể thành công khi thực tập một hơi thở có ý thức. Nếu ta tiếp tục thở như thế được mười hơi mà tâm ta không tán loạn, ấy là ta đã bước được một bước đáng kể trên đường thực tập. Thực tập như thế được mười phút thì sự đổi mới trong ta đã có thể được gọi là quan trọng.

Tại sao bài tập đơn giản này lại có thể đưa tới những hiệu quả lớn lao? những hiệu quả lớn lao ấy là những hiệu quả nào?

Hiệu quả đầu là ta trở về với chính ta. Trong đời sống hàng ngày, ta thường bị đắm chìm trong quên lãng. Tâm ta rong ruỗi theo muôn ngàn đối tượng và ta ít khi có dịp để trở về với chính mình. Sống như thế lâu ngày thì ta trở nên xa lạ với chính ta, ta bị cắt đứt liên lạc ngay với chính ta. Đó là hiện tượng phóng thể (alíenation) rất phổ thông của thời đại. Hơi thở có ý thức là một phương tiện mầu nhiệm để đưa ta trở về với chính ta. Sự trở về này có thể được thực hiện một cách nhanh chóng phi thường. Để ý tới hơi thở tức là thực hiện sự trở về ấy, và thực hiện một cách mau chóng như làn chớp giật.

Nương vào hơi thở để trở về với chính ta, ta có cảm giác ta là một người con đi xa trở về được ngôi nhà của tổ phụ. Chính trong ngôi nhà này mà ta cảm thấy ấm áp, chính nơi đây mà ta tìm lại được chính ta. Trở về với ta há không phải là một bước thành công lớn của sự thực tập hay sao?

Hiệu quả thứ hai là tiếp xúc với sự sống. Thiền quán là tiếp xúc với sự sống trong giờ phút hiện tại. Ta chỉ có thể gặp mặt sự sống trong giờ phút hiện tại, vì vậy nếu ta không tiếp xúc được với giây phút hiện tại thì ta không thể tiếp xúc được với sự sống. Mà muốn tiếp xúc với sự sống trong giờ phút hiện tại ta phải tương đối có tự do, nghĩa là không bị ràng buộc nhiều quá vào những tiếc nuối hay ân hận vì quá khứ, vào những lo lắng và băn khoăn về tương lai, và vào những giận hờn và đam mê trong hiện tại. Sự sống đầy dẫy và mầu nhiệm trong ta và chung quanh ta, nếu ta bị ràng buộc thì ta không thể tiếp xúc với nó, nghĩa là ta không thể thật sự sống đời sống của ta.

Trở về với hơi thở có ý thức là một phương thức thần diệu để rũ bỏ những ràng buộc ấy và để có thể tiếp xúc với sự sống trong giờ phút hiện tại. Hơi thở của ta đã là một thực tại mầu nhiệm. Tiếp xúc với hơi thở, sống với hơi thở, trở về làm một với hơi thở, ta đã bắt đầu cảm thấy thoải mái, thanh tịnh, an lạc, không bị lo âu và ham muốn lung lạc và thống trị. Càng thở, ta càng làm cho hơi thở điều hoà, lắng dịu và sự thanh thản cùng niềm an lạc của ta cũng do đó mà càng lúc vững chãi thêm lên. Nương vào hơi thở, ta trở về với ta, ta phục hồi được sự toàn vẹn của con người ta. Thân và tâm trở về một mối nhờ ở hơi thở. Khi phục hồi được con người toàn vẹn của ta, ta sẽ thực sự tiếp xúc được với những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại. Những gì ấy chính là sự sống.

Bài tập thứ hai: bài tập thứ hai mà kinh dạy là theo dõi hơi thở trong suốt chiều dài của nó: “thở vào một hơi dài, người ấy ý thức rằng: ta đang thở vào một hơi dài. Thở ra một hơi dài, người ấy ý thức rằng: ta đang thở ra một hơi dài. Thở vào một hơi ngắn, người ấy ý thức rằng: ta đang thở vào một hơi ngắn. Thở ra một hơi ngắn, người ấy ý thức rằng: ta đang thở ra một hơi ngắn”.

Những câu kinh này có nghĩa là tâm hành giả phải theo sát hơi thở, đồng nhất với hơi thở, trong suốt chiều dài của hơi thở đó, đừng để một tạp niệm nào chen vào. Tạp niệm ở đây có nghĩa là những tư tưởng, và cả những ý niệm không liên hệ gì tới việc thực tập hơi thở.

Phương pháp này được gọi là phương pháp tùy tức. Tùy là đi theo. Tức là hơi thở. Trong khi tâm đi theo hơi thở thì tâm là hơi thở và chỉ là hơi thở mà thôi. Cố nhiên là trong quá trình thực tập, hơi thở càng lúc càng trở nên đều đặn, êm dịu, nhịp nhàng và tĩnh lặng, và tâm ta do đó cũng càng lúc càng trở nên đều đặn, êm dịu, nhịp nhàng và tĩnh lặng. Điều này mang lại sự thư thái và an lạc trong thân tâm. Tâm và hơi thở đã hợp nhất thì sự hợp nhất của thân và tâm chỉ còn là một bước ngắn.



Bài tập thứ ba: bài tập thứ ba mà kinh dạy là hợp nhất thân và tâm lại thành một toàn thể có hoà điệu. Yếu tố dùng để hợp nhất cố nhiên là hơi thở. Kinh dạy: “tôi đang thở vào và có ý thức rõ rệt về toàn thân tôi. Tôi đang thở ra và có ý thức rõ rệt về thân tôi”. Trong thiền quán, trạng thái không còn có sự phân biệt giữa thân và tâm nữa gọi là trạng thái thân tâm nhất như.

Tới bài tập này, đối tượng của quán niệm không còn là hơi thở đơn thuần nữa mà là một đối tượng phối hợp thân thể và hơi thở.

Có những hành giả và những bình luận gia vì quá chú trọng đến sự thực hiện các trạng thái thiền định như tứ thiền và tứ vô sắc định, cho nên đã diễn tả từ ngữ toàn thân trong đoạn kinh này như là toàn thân của hơi thở chứ không phải là cơ thể tròn vẹn của người hành giả. Các bộ luận danh tiếng như Patisambhidamagga (Vô Ngại Đạo Luận), Vimuttimagg (Giải Thoát Đạo Luận) và Visudhimagga (Thanh Tịnh Đạo Luận) đều dạy rằng trong khi thở nên chủ tâm ở đầu mũi, tức là nơi không khí đi vào và đi ra khỏi thân thể mà không nên đi vào và đi ra khỏi cơ thể, sợ đi vào cơ thể thì đối tượng tập trung sẽ lớn quá, khó có thể đi vào định. Nghĩ như thế cho nên tác giả các bộ luận ấy đều đã cho rằng chữ thân (kaya) ở trong kinh văn chỉ có nghĩa là thân của hơi thở. Đọc lại kinh văn ta thấy ý niệm theo dõi toàn thân hơi thở đã được nói tới trong bài tập thứ hai rồi (“ hơi thở dài thì biết là hơi thở dài”) đâu có cần phải được lập lại ở bài tập này. Theo kinh Quán Niệm Hơi Thở (An Ban Thủ Ý Kinh – Anapanasati sutta - ) bốn bài tập đầu về hơi thở là để quán niệm về thân, vậy bài tập thứ ba này lấy đối tượng là thân, đó là chuyện dĩ nhiên vậy. Kinh văn không có chỗ nào dặn chỉ nên để ý tới hơi thở nơi đầu mũi, và cũng không có chỗ nào dặn đừng chuyển sự tập trung tâm ý vào trong thân. Đọc sâu vào kinh văn ta sẽ thấy điều ngược lại.

Gần đây ở Miến Điện có thiền sư Mahasi Sayadaw dạy phương pháp chú ý tới sự phồng và xẹp của bụng do hơi thở tạo nên. Hành giả thực tập theo phương pháp này có thể đạt được định tâm khá dể dàng, nhưng phương pháp này lại không được diễn tả như là một phương pháp quán niệm hơi thở. Nguyên tắc hành trì là “do định mà tuệ (sự hiểu biết) tự nhiên phát sinh”. Sở dĩ thiền sư không muốn diễn tả phương pháp này như một phương pháp quán niệm hơi thở có thể đó là vì thành kiến sẵn có trong truyền thống, cho rằng quán niệm hơi thở thì không được đi theo hơi thở vào trong cơ thể và xuống bụng.

Nhân đây tôi cũng xin sơ lược tới mục đích của sự thực hiện định tâm. Trong Bát Chánh Đạo, định được nói tới là chuyên định (Samayagsamadhi) nghĩa là một thứ định chân chính có khả năng đưa tới tuệ giác.

Như vậy có những thứ định không được gọi là chánh định mà phải được gọi là tà định, những trạng thái thiền định chỉ có công năng giúp người hành giả lẫn trốn thực tại phiền toái và khổ đau mà không giúp người hành giả trực tiếp đối phó và quán chiếu những thực tại ấy để đạt tới giải thoát. Trước khi thành đạo Bụt cũng đã học và hành những thứ định ấy, nhưng về sau thấy chúng không có công năng đưa tới giải thoát nên Bụt mới bỏ và tìm con đường chánh định của mình. Vậy nên ta không thể nói hễ có định là tuệ giác tự nhiên phát hiện. Ta chỉ có thể nói: hễ có chánh định là có tuệ giác phát hiện. Mà chánh định là thứ định có liên hệ tới công năng quán chiếu và có ý thức quán chiếu. Do đó mà ta có danh từ kép Samatha – Vipassana (phạn: samatha vipasyana) dịch âm là xa ma tha tỳ bà xá na, dịch nghĩa là chỉ quán, tịch chiếu, tĩnh mịch hay định tuệ. Tứ thiền và tứ vô sắc định là những trạng thái thiền địch Bụt đã thực tập trước khi thành đạo với các vị đạo sư như Alara Kalama và Addeka Ramaputta. Các trạng thái thiền định này đã được đưa vào kinh tạng, có lẽ một vài trăm năm sau ngày bụt nhập diệt. Nhưng nếu các trạng thái thiền định này được diễn tả như có công năng đưa người hành giả lẫn tránh thực tại thì đó cũng không phải là chánh định.

Trong bài tập thứ ba này, hành giả dùng hơi thở để hợp nhất thân tâm lại thành một mối và cố nhiên đối tượng của định đồng thời là thân, tâm và hơi thở. Trạng thái thân và tâm nhất như này là trạng thái toàn vẹn nhất của con người chúng ta. Trong đời sống hàng ngày nhiều khi ta sống tâm một nơi thân một ngã, con người của ta bị chia năm xẻ bảy, tâm ý trôi dạt ngàn nơi, có khi phiêu dạt về quá khứ xa xăm, có khi bồng bềnh ở tương lai mờ mịt. Thực hiện được thân tâm nhất như trong chánh niệm, ta trở về được cội nguồn và phục hồi được sự toàn vẹn của ta. Mọi sự thực hiện đều có thể được bắt nguồn tại trạng thái thân tâm nhất như này. Duy trì trạng thái thân tâm nhất như này, ta tạo điều kiện để cho thiên nhiên bắt đầu chữa trị những thương tích trong tâm hồn và trong cơ thể của ta, những thương tích mà ta không thể chữa trị được trong trạng thái thân tâm ly tán. Trong khi ta tĩnh toạ, ba yếu tố thân, tâm và hơi thở đi dần dần đến sự an tịnh và hợp nhất. Sự an tĩnh của một trong ba yếu tố kéo theo sự an tĩnh của hai yếu tố khác. Ví dụ nếu thân ta được đặt trong tư thế vững chãi, các bắp thịt và hệ thần kinh buông thư, thì tâm ta và hơi thở ta liền chịu ảnh hưởng tốt ấy và cũng dần dần trở nên an tịnh. Cũng như thế, nếu ta thực tập hơi thở ý thức đúng phép, hơi thở của ta càng lúc càng trở nên êm dịu, an tĩnh và điều hoà, thì sự êm dịu, an tĩnh và điều hoà này của hơi thở sẽ lan đến các lĩnh vực thân và tâm của ta. Do đó thân và tâm của ta trong trạng thái thân tâm nhất như sẽ cũng đạt tới trạng thái êm dịu, an tĩnh và điều hoà. Điều này không thể xảy ra một cách khác được. Trong trạng thái thân tâm nhất như này hơi thở giữ vai trò điều hợp, và cảm giác thoải mái và an lạc, hoa trái đầu tiên của thiền tập, sẽ đến với chúng ta.



Bài tập thứ tư: bài tập thứ tư là dùng hơi thở để thực hiện sự an tịnh trong toàn thân. Kinh văn chỉ dẫn: “tôi đang thở vào và làm cho sự vận hành của thân thể tôi trở nên an tịnh. Tôi đang thở ra và làm cho sự vận hành của thân thể tôi trở nên an tịnh”.

Bài tập này tiếp nối bài tập thứ ba. Khi cơ thể ta thiếu sự an hoà thì tâm ta khó mà được an tịnh, vì vậy ta phải dùng hơi thở để giúp cho sự vận hành của cơ thể được điều hoà và an tịnh trở lại. Nếu hơi thở ta hổn hển hay đứt quãng thì ta không thể nào làm được việc ấy. Trước hết ta phải điều hoà hơi thở, thở ra và thở vào những hơi thở nhẹ nhàng và liên tục. Khi hơi thở bắt đầu được điều hoà thì cơ thể cũng bắt đầu được điều hoà.

Hơi thở ta cần được êm nhẹ không phát ra tiếng động và liên tục như một dòng nước nhỏ chảy trong cát mịn. Hơi thở càng vi tế thì thân và tâm càng an tịnh. Khi thở vào ta thấy hơi thở đi vào cơ thể và làm dịu mát tất cả các tế bào trong cơ thể. Khi thở ra ta thấy hơi thở đưa ra khỏi cơ thể ta mọi sự mệt mỏi, buồn bực và lo âu. Ta có thể thở theo bài kệ sau đây:


Thở vào tâm tĩnh lặng
Thở ra miệng mỉm cười
An trú trong hiện tại
Giờ phút đẹp tuyệt vời

Ta biết rằng trong lúc thiền quán thân và tâm là một. Vậy thì tâm tĩnh lặng tức cũng có nghĩa là thân tĩnh lặng. Miệng mỉm cười là chứng tích của sự an lạc của thân tâm. Bản chất của thiền tập là trở về an trú trong hiện tại để quán chiếu về những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại. Cảm thọ an lạc có tác dụng nuôi dưỡng hành giả để hành giả có thể đi xa trên đường thực tập. Xin độc giả tham cứu thêm kinh quán niệm hơi thở về hơi thở thứ năm và thứ sáu. Hai hơi thở này là để giúp người hành giả tự nuôi dưỡng bằng thiền duyệt nghĩa là bằng sự an vui của thiền định. Giờ phút đẹp tuyệt vời là để thấy được những mầu nhiệm của sự sống nơi thân tâm và hơi thở và để làm vững mạnh niềm an vui ấy.

Chúng ta đang ở trong phần thứ hai của kinh văn nói về công phu quán niệm thân thể nơi thân thể, đáng lý chúng ta chưa nên nói tới cảm thọ trong cảm thọ, nhưng vì giữa thân thể và cảm thọ có liên hệ rất mật thiết nên chúng ta đã không ngần ngại vượt ranh giới giữa hai lĩnh vực. Sự an tịnh của thân, như ta biết, cũng là sự an tịnh của tâm.

Trong các bài tập thứ ba và thứ tư, hành giả theo hơi thở trở về với thân và làm cho thân trở nên an tịnh. Cố nhiên là trong khi thực tập các phép thở này, các cánh cửa giác quan như, tai, mũi và lưỡi phải được khép lại để những hình ảnh của thế giới bên ngoài không đi vào và làm náo động sự an tĩnh bên trong. Trở về với thân tức cũng là trở về với tâm vậy. Lâu lâu, trong đời sống hàng ngày, có khi bạn cảm thấy mệt mỏi, làm cái gì cũng dể hư, nói cái gì cũng dễ gây hiểu lầm và bạn cho đó là một ngày “xui” của bạn. Những lúc ấy, tốt hơn hết là bạn nên trở về với bản thân bạn. Chấm dứt mọi sự giao tiếp đóng hết mọi cánh cửa sổ của giác quan, bạn theo hơi thở trở về với bản thân và gom thân, tâm và hơi thở về một mối. Bạn sẽ có cảm giác ấm cúng của một người ngồi trong nhà trong khi mưa gió gào thét bên ngoài. Phương pháp này có thể được thực tập ở đâu, bất cứ lúc nào, không hẳn chỉ là ở trong tư thế thiền toạ. Ta trở về tiếp xúc với ta và làm cho con người của ta toàn vẹn trở lại. Ta đừng nghĩ rằng đóng cửa giác quan là tách rời ta ra khỏi thế giới và cuộc đời, là chấm dứt sự tiếp xúc với cuộc đời. Khi ta không thực sự là ta, khi ta bị chi phối hay tán loạn, ta không thực sự tiếp xúc sự sống. sự tiếp xúc chỉ sâu sắc khi ta thực sự là ta. Nếu ta không là ta trong giây phút hiện tại thì nhìn trời xanh ta không thực sự thấy trời xanh, nắm tay em bé ta không thực sự nắm tay em bé, uống trà ta không thực sự uống trà. Vì vậy thực hiện sự toàn vẹn của ta là căn bản cho mọi sự tiếp xúc có ý nghĩa. Ta thực hiện sự toàn vẹn của con người ta bằng cách theo hơi thở có ý thức mà trở về với thân (và tâm) ta. Làm như thế cũng là làm mới lại con người ta trong từng giây phút. Ta trở nên tươi mát và dễ chịu đối với mọi người. Và khi ta đã đổi mới ta rồi thì nhìn mọi vật ta thấy mọi vật đều đổi mới. Trúc lâm đại sĩ núi yên tử, một thiền sư sống ở thế kỷ thứ mười ba đã nói: “mỗi lần cầm đến lại thành mới tinh” (nhất hồi niêm xuất nhất hồi tân).



Bài tập thứ năm: bài tập này là quán chiếu để có ý thức về những tư thế của thân thể. Kinh văn chỉ dẫn: “khi đi, vị khất sĩ lại cũng ý thức rằng mình đang đi, khi đứng, ý thức rằng mình đang đứng, khi ngồi, ý thức rằng mình đang ngồi, khi nằm, ý thức rằng mình đang nằm”.

Cố nhiên bài tập này không phải chỉ để thực tập trong khi ngồi thiền. Thiền pháp để dạy trong kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm là thiền pháp xử dụng suốt ngày để giúp hành giả an trú suốt ngày trong chánh niệm. Khi đi kinh hành trong thiền đường hoặc khi đi thiền hành bên ngoài, hành giả có thể điều hợp với hơi thở với bước chân để an trú vững chãi trong chánh niệm. Trước khi đi kinh hành hay thiền hành, bạn có thể xử dụng bài kệ này, Mỗi câu phối hợp với một hơi thở, bắt đầu bằng hơi thở vào:


Ý về muôn vạn nẻo
Thiền lộ tâm an nhiên
Từng bước gió mát dậy
Từng bước nở hoa sen
Mỗi khi ngồi xuống, bạn có thể xử dụng bài kệ này, cũng phối hợp với hơi thở:
Ngồi đây ngồi cội bồ đề
Vững thân chánh niệm không hề lãng xao.


Cố nhiên là trong các tư thế đứng và ngồi ta cũng đều có thể xử dụng hơi thở để có ý thúc về các tư thế ấy. Trong khi đứng sắp hàng để chờ đợi mua vé chẳng hạn, hoặc trong lúc ngồi, ta cũng có thể xử dụng bài kệ “thở vào tâm tĩnh lặng” để tiếp tục an trú trong chánh niệm và để làm an tịnh thân tâm.


Bài tập thứ sáu: bài tập này là quán chiếu để có ý thức về những động tác của cơ thể. Khi đi tới, đi lui, cúi xuống, ngửng lệ, mặc áo, mang bát, nhai cơm, uống nước, đi tiểu, đi đại v.v... hành giả ý thức được là mình đang làm những động tác ấy.

Bài tập này là công phu căn bản của người xuất gia. Hồi tôi mới đi tu, cách đây bốn mươi sáu năm, cuốn kinh đầu tiên mà thầy tôi trao cho để học thuộc lòng là cuốn Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu, trong đó toàn là những bài thi kệ để thực tập khi rửa tay, đánh răng, rửa mặt, mặc áo, quét sân, đi tiểu, đi tắm v.v.. Ví dụ khi nghe chuông tôi phải thở và đọc bài kệ: “văn chung thanh, phiền não khinh, trí tuệ trưởng, bồ đề sinh...” tập thở và đọc kệ như vậy giúp tôi an trú trong chánh niệm. Chánh niệm khiến cho mọi động tác của thân thể ta có thêm uy nghi, giúp ta làm chủ được thân và tâm và nuôi lớn định lực của ta. Cuốn Tỳ Ni Nhật Tụng Thiết Yếu là do thiền sư Độc Thể viết bằng chữ hán, nhiều bài kệ trong ấy được lấy từ kinh Hoa Nghiêm. Sau này tôi có viết cuốn Từng Bước Nở Hoa Sen trong ấy có khoảng năm mươi bài thi kệ cũng theo tinh thần sách Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu. Những bài thi kệ ở đây bằng tiếng Việt rất dễ thực tập, những bài này có thể được điều hợp với hơi thở.

Thực tập bài tập thứ sáu này, động tác hằng ngày của ta có thể chậm lại, vì động tác có chánh niệm đi theo thường mất đi tính cách vội vàng và vụt chạc của nó. Một chú sa di hay một cô sa di ni nếu siêng năng thực tập bài tập này thì sẽ thấy động tác hằng ngày của mình khoan thai và đĩnh đạc trở lại. Chánh niệm được nhìn thấy qua động tác và ngôn ngữ được xem như là thiền vị, tính chất đặc biệt của người có tu tập. Động tác đi theo chánh niệm thì thân sẽ thư thái ung dung và an lạc. Bài tập này là bài tập cho cả một đời người.


Bài tập thứ bảy: bài tập này còn giúp ta xúc tiếp sâu sắc hơn nữa với cơ thể ta. Ở đây ta không quán chiếu cơ thể như một toàn thể nữa mà ta quán sát từng bộ phận của cơ thể, từ tóc trên đầu cho đến da dưới gót chân. Trên quá trình quán chiếu, ta đi ngang qua tất cả các bộ phận của cơ thể, trong đó óc, tim, phổi, gan, mật, lá lách, máu, nước tiểu, v.v.. Bụt đưa ra ví dụ người nông dân đổ ra sàn nhà tất cả những loại hạt giống mà ông ta cất chứa trong bao và nhận ra từng thứ: đây là hạt lúa, đây là hạt đậu, đây là hạt mè, v.v.. Trong khi quán chiếu về thân thể, ta nhận ra từng bộ phận của cơ thể ấy. Cố nhiên ta có thể dùng hơi thở ý thức để quán chiếu các bộ phận của cơ thể. Ví dụ: “tôi đang thở vào và có ý thức rằng đây là tóc trên đầu tôi, tôi đang thở ra và có ý thức rằng đây là tóc trên đầu tôi”. Xử dụng hơi thở có ý thức, ta an trú dễ dàng hơn trong chánh niệm và ta có thể tiếp tục không gián đoạn công việc quán chiếu từ bộ phận này đến bộ phận khác của cơ thể. Ngoài việc xử dụng hơi thở ý thức, ta còn có thể dùng phương pháp gọi tên các bộ phận của cơ thể để những bộ phận này càng hiện rõ thêm ra dưới ánh sáng của chánh niệm. Ta chỉ cần gọi thầm trong tâm trí mà thôi. Ta có thể đặt câu hỏi: “quán niệm về các bộ phận cơ thể như thế để làm gì ?”

Trước hết, quán niệm về các bộ phận của cơ thể để thực sự tiếp xúc với chúng cũng như nương vào hơi thở trở về với thân thể để tiếp xúc với thân thể. Nhiều khi ta có cảm tưởng rằng ta đã là cơ thể ta, và cơ thể của ta chẳng có gì lạ đối với ta. Nghĩ như vậy là lầm. Sự thật là giữa ta và cơ thể ta có thể có một sự ngăn cách lớn lao và thân thể ta còn là một thực tại khá xa lạ đối với ta, thậm chí có người nhìn cơ thể họ như một ngục tù đày đoạ họ. Trở về với cơ thể và thiết lập hoà điệu với cơ thể. Ta biết rằng cơ thể không an thì ta không an, và vì vậy muốn làm an tịnh cơ thể ta phải trở về với nó và làm lành với nó. Bạn hãy thử đặt bàn tay bạn trên từng bộ phận của cơ thể bạn để làm quen và quán chiếu về bộ phận ấy. Hơi thở ý thức của bạn sẽ giúp bạn trở về làm quen với từng bộ phận của cơ thể bạn. Bạn hãy chú ý tới từng bộ phận với tất cả lòng ưu ái của bạn. Con mắt, trái tim và bàn chân của bạn chẳng hạn, trong mấy mươi năm qua đã làm việc một cách tận tâm và trung thành với bạn và cho bạn, nhưng bạn chưa bao giờ thực sự để tâm đến chúng và tỏ vẻ biết ơn chúng. Thiết lập liên hệ thân hữu với cơ thể bạn là một việc làm rất cần thiết. Thứ hai là mỗi bộ phận của cơ thể bạn có thể là một cánh cửa mở ra cho bạn đi vào cái thấy của giải thoát và giác ngộ. Ban đầu bạn chỉ nhận diện bộ phận ấy của cơ thể. Nhưng sau đó bạn sẽ dần dần thấy được tự tính của bộ phận ấy. Mỗi sợi tóc hay mỗi tế bào trong cơ thể bạn đều chứa đựng đầy đủ những dữ kiện về tự tính của vạn hữu trong vũ trụ. Mỗi sợi tóc trên đầu bạn là một thông điệp của chân lý về tự tính của vũ trụ. Có thể sau này bạn đạt tới cái thấy về tự tánh vũ trụ chỉ vì quán chiếu về tính duyên sinh của một sợi tóc.

Bạn quán chiếu các bộ phận của cơ thể bắt đầu từ tóc trên đầu cho đến da dưới bàn chân, hoặc có khi chỉ quán chiếu về một bộ phận của cơ thể như con mắt, trái tim hoặc ngón chân cái của bạn. Trong quá trình quán chiếu từ đầu tới chân, có thể có những chủ đề quán chiếu khác nẩy sinh. Bạn ghi nhận những chủ đề ấy, rồi tiếp tục công việc quán chiếu các bộ phận khác của cơ thể, tự nhủ rằng sẽ trở về những chủ đề kia vào một dịp khác.


Bài tập thứ tám: bài tập này có mục đích cho ta thấy được những liên hệ duyên sinh giữa cơ thể ta và vạn hữu vũ trụ.Đây là một trong những phép quán chủ yếu để đạt tới sự chứng nghiệm tự tính vô ngã và bất sinh bất diệt của vạn pháp. Sự chứng nghiệm này có hiệu năng đưa tới giải thoát và giác ngộ.

Kinh văn chỉ dẫn ta quán chiếu về sự có mặt của đất, nước, lửa và gió trong cơ thể ta. Đất, nước, lửa và gió được xem như những yếu tố căn bản của vật thể gọi là bốn đạt (Mahabhuta, có khi cũng gọi là dhatu, giới). Đất đại biểu cho tính cách rắn chắc của vật thể, nước đại biểu cho tính cách lưu nhuận, lửa đại biểu cho nhiệt lượng và gió đại biểu cho động tác. Kinh Dhatu – vibhanga (M.140) nói tới sáu đại như những yếu tố cấu tạo vật thể: ngoài đất, nước, lửa và gió còn có không gian (akasa) và tâm thức (vijnana) nữa. Tụng bản II của chúng ta thay vì nói bốn đại cũng đã nói tới sáu đại: đất, nước, lửa, gió, không gian và tâm thức.

Trong cơ thể ta có trên 75% là nước. Hành giả quán chiếu để thấy được yếu tố nước ấy trong thân thể. Không những ta thấy yếu tố nước lưu nhuận trong máu, mồ hôi, nước bọt, nước mắt, nước tiểu . . . ta còn có thể thấy được yếu tố nước trong từng tế bào của cơ thể. Ta thấy những đám mây trong cơ thể ta, vì nếu không có mây thì không có mưa, ta sẽ không có nước để uống, ta cũng sẽ không có gạo và rau để ăn, bởi vì gạo lúa và rau trái phải cần có mưa mới sinh trưởng được. Trong cơ thể ta có lửa, tức là nhiệt lực. Ta thấy mặt trời trong cơ thể ta, vì nếu không có mặt trời thì trái đất sẽ băng giá và sự sống không thể có được trên trái đất. Nhờ mặt trời mà ta có gạo và rau để ăn, bởi vì gạo lúa và rau trái cần phải có ánh sáng mặt trời mới sinh trưởng được. Ta thấy đất trong ta, đất là đại biểu cho khoáng chất. Ta thấy đất sống trong ta vì nếu không có đất thì cũng không có ta. Nhờ đất mà ta có gạo và rau để ăn, bởi vì gạo lúa và rau trái phải cần có đất mới sinh trưởng được. Ta thấy gió trong ta, gió là không khí chuyển động. Nếu không có không khí ta cũng không thể nào sống được. Ta cũng như mọi loài thảo mộc, trong đó có lúa gạo và rau trái ta ăn, phải cần đến không khí để có thể sống còn. Hành giả quán chiếu để thấy được sự có mặt của vạn vật trong tự thân của mình, để chứng nghiệm tính cách tương quan tương duyên giữa mình và vạn hữu trong vũ trụ, để thấy rằng sự sống của mình và để vượt thoát thân kiến, nghĩa là vượt thoát cái nhìn sai lầm căn bản: cho thân thể này là mình và mình chỉ là thân thể này. Đó là tự tính vô ngã của vạn hữu. Trong cuốn Trái Tim Mặt Trời (lá bối, Paris, 1982), tôi có nói tới mặt trời như một trái tim thứ hai của mình, một trái tim nằm ngoài cơ thể của mình nhưng cũng thiết yếu cho cơ thể mình như trái tim thứ nhất nằm trong cơ thể. Khi trái tim bên trong cơ thể không còn vận động nữa thì ta sẽ chết, điều ấy ta biết rõ, nhưng ta thường quên rằng nếu trái tim bên ngoài cơ thể ta ( tức là mặt trời) mà tắt ngấm thì ta cũng sẽ chết tức khắc. Quán chiếu về tự tính duyên khởi của thân thể, ta có thể thấy được sự sống của ta ngoài cơ thể ta, vượt được ranh giới giữa ngã và phi ngã. Phép quán chiếu này có thể giúp ta siêu việt được sinh tử.


Bài tập thứ chín: bài tập này giúp ta thấy được tính cách vô thường và chắc chắn phải tàn hoại của cơ thể. Phép quán này thường được gọi là cửu tưởng quán, đối tượng là chín giai đoạn tàn hoại của một cơ thể không còn sinh khí. Mới nghe qua, bạn có thể có cảm giác không dễ chịu nhưng hiệu quả của phép quán này quả thật rất lớn lao, và hiệu năng giải thoát và an lạc của nó cũng rất vĩ đại.

Ngày xưa các vị khất sĩ thường hay vào ngồi ở bãi tha ma để thực hành phép quán này.

Chín giai đoạn tàn hoại của tử thi là những giai đoạn sau đây:
Xác chết sình lên, xanh lại, thối nát ra.
Xác chết bị các loài dòi bọ rúc rỉa, bị quạ, diều hâu, kên kên và chó sói rừng xé ăn.
Xác chết chỉ còn là một bộ xương dính ít thịt và máu.
Chỉ còn là một bộ xương, hết thịt nhưng còn dính máu.
Chỉ còn là một bộ xương, không còn dính máu, nhưng các đốt xương còn dính vào nhau.
Chỉ còn một đống xương rời rạc, nơi này là xương ống tay, nơi kia là xương ống chân, nơi nọ là đầu lâu . . .
Chỉ còn một đống xương trắng màu vỏ ốc.
Chỉ còn một mớ xương khô.
Xương đã mục, chỉ còn lại một mớ bụi.


Hành giả quán để thấy được thây chết trong từng giai đoạn và để thấy được rằng thân thể mình cũng sẽ như vậy, không có lối nào tránh thoát.

Phép quán này nên được thực tập khi ta có đủ sức khoẻ, vật chất cũng như tinh thần và nhất là những khi ta bị chi phối bởi những tâm trạng tham dục và sân hận.

Phép quán này đã không khiến cho ta nhàm chán sự sống mà lại giúp ta thấy được cái quí giá của sự sống, đã không khiến cho ta có thái độ bi quan đối với sự sống mà còn giúp ta biết sống như thế nào để đừng làm uổng phí đời ta. Can đảm nhìn vào sự thật để thấy được thật tướng của muôn vật, điều này chỉ có thể đem tới cho ta sự lợi lạc. Thấy được tính vô thường của vạn vật, ta càng thấy được sự quý giá của vạn vật. Bạn đã thức đêm để đợi một bông hoa quỳnh nở hay chưa? Đoá quỳnh nở và tàn trong vòng mấy tiếng đồng hồ nhưng vì ý thức được điều đó nên ta thấy được rất rõ sự quý hoá và mầu nhiệm của đoá hoa quỳnh ấy. Ta tiếp xúc thật sự với tính cách mầu nhiệm của đoá quỳnh, ta trân quý sự có mặt của nó, tuy nhiên ta không bị sự sầu khổ và tiếc nuối trấn ngự, bởi vì ta đã thấy được trước khi nó nở và trong khi nó nở, tính cách chóng tàn của một bông quỳnh. Những người thân yêu sống chung với ta và những gì đẹp đẽ và quý giá hiện có trong tầm tay ta đều là những bông hoa quỳnh mầu nhiệm. Nếu ta thấy được tự tính vô thường của sự vật, ta sẽ biết trân quý sự có mặt của những người ấy và của những cái ấy trong giờ phút hiện tại. Biết trân quý họ ta sẽ có thì giờ tiếp xúc thật sự với họ, sẽ chăm sóc họ, sẽ làm cho họ có hạnh phúc và do đó ta càng có thêm hạnh phúc.

Cửu tưởng quán khiến cho ta thấy được tính cách quý giá của sự sống nơi ta và nơi các loài khác, đồng thời dạy ta cách sống thanh thản, nhẹ nhàng, không vướng mắc vào tham dục và giận hờn đồng thời giúp ta vượt thoát những sầu khổ do tham dục và giận hờn gây ra.

Nhận xét tổng quát về chín bài tập trên: trong suốt chín bài tập vừa qua, hành giả trở về với thân thể mình, khi thì tập trung nơi hơi thở, khi thì tập trung vào cơ thể, khi thì tập trung nơi những động tác của cơ thể, khi thì quán chiếu về những bộ phận của cơ thể và về những yếu tố tạo nên cơ thể, khi thì quán chiếu về sự tàn hoại của cơ thể . . . trở về thân thể để nhận thức và quán chiếu như thể không phải là để bị nhốt lại trong cái vỏ tự ngã mà trái lại là để tiếp xúc trực tiếp với cơ thể và thấy được quá trình sinh khởi và hoại diệt của những yếu tố và những khía cạnh của cơ thể.

Đoạn kinh văn này được lập lại sau mỗi đoạn chỉ dẫn thực tập về sự quán niệm thân thể, ta nên đọc lại: “cứ như thế, vị ấy an trú trong sự quán niệm thân thể nơi thân thể, hoặc quán niệm thân thể nơi thân thể, hoặc quán niệm bên trong, hoặc quán niệm bên ngoài thân thể ấy, hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài. Vị ấy an trú trong sự thường trực quán niệm quá trình sinh khởi nơi thân thể, hoặc quán niệm quá trình huỷ diệt nơi thân thể, hoặc quán niệm cả quá trình sinh khởi lẫn quá trình huỷ diệt nơi thân thể. Hoặc người ấy quán niệm: “có thân thể đây, đủ để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của thân thể đó, và như vậy, người ấy an trú một cách tự do không bị bất cứ một thứ gì trong cuộc đời làm vướng bận”.

Ta nên nhớ: hơi thở, các tư thế của thân thể, các động tác của thân thể, các bộ phận của thân thể, những yếu tố tạo nên thân thể và sự tàn hoại của thân thể… đều thuộc về thân thể, đều là thân thể. Tiếp xúc với tất cả các khía cạnh ấy của thân thể để thấy được quá trình sinh diệt, tự tánh duyên sinh và vô ngã của chúng, tức là quán chiếu về thân thể vậy.

Do đó, các phép quán vô thường, vô ngã và duyên sinh, ba phép quán căn bản của đạo bụt đã được thực tập ngay trong tám bài tập quán niệm về thân thể. Nội việc thực tập tám bài tập quán niệm về thân thể này cũng đủ đem lại giải thoát và giác ngộ.

Đoạn kinh văn vừa trích dẫn nằm trong tụng bản I. Ở tụng bản II, ta thấy câu kinh tương đương sau đây: “như thế, vị khất sĩ quán thân như thân, bên trong cũng như bên ngoài, thiết lập chánh niệm nơi thân, có biết, có thấy, có sáng, có đạt: đó gọi là vị khất sĩ quán thân như thân”.

Biết, thấy, sáng, đạt ở đây là biết, thấy, sáng và đạt về tự tính vô thường, vô ngã và duyên sinh của thân thể, hay của vạn vật qua sự quán chiếu về thân thể. Quán chiếu về tính cách vô thường, vô ngã và duyên sinh của vạn vật, như ta đã biết, không đưa ta tới sự ghét bỏ sự sống mà trái lại còn làm cho ta thấy được giá trị của sự sống nơi mọi loài sinh vật. Giải thoát không phải là trốn chạy sự sống hay là tiêu diệt sự sống. Có nhiều người trình bày đạo lý của Bụt như con đường thoát ly sự sống, thoát ly thế giới của năm uẩn, tức là thế giới của sắc thân, cảm giác, tri giác, tâm tư và nhận thức. Trình bày đạo lý của Bụt như thế có khác nào nói rằng mục đích của sự tu tập là đạt tới sự vắng mặt của sự sống, hay đạt tới hư vô. Trong kinh Chuyển Pháp Luân, pháp thoại đầu của Bụt, giảng tại vườn Lộc Uyển, Bụt có nói tham đắm vào hiện hữu (bhava) và tham đắm vào hư vô (abhava) đều là tham đắm. Trong kinh nêu khổ đau không phải là sự sống, không phải là năm uẩn, không phải là tính cách vô thường, vô ngã và duyên sinh của vạn vật mà là sự mờ ám của ta về tính cách vô thường, vô ngã và duyên sinh của vạn vật. Ví không chứng nghiệm được tính cách vô thường, vô ngã và duyên sinh của vạn vật cho nên ta rơi vào trong sự tham đắm, từ đó nảy sinh ra mọi phiền não và ràng buộc: thất vọng, giận hờn, kiêu mạn, nghi ngờ v.v... vô thường, vô ngã và duyên sinh không phải là những nhược điểm của sự sống mà chính là điều kiện thiết yếu của sự sống. Nếu không có vô thường, làm sao hạt bắp có thể trở thành cây bắp, và làm sao em bé có thể lớn lên và học giỏi? Chính là nhờ vô thường, vô ngã và duyên sinh, vạn vật mới có thể sinh khởi, trưởng thành, tàn hoại và tiêu diệt. Sinh, thành, hoại, diệt là những giai đoạn cần thiết của sự sống, không phải chỉ là sự sống của một cá thể mà là sự sống của muôn loại. Diễn bày vô thường, vô ngã và duyên sinh như những vết đen hoặc những bệnh trạng của sự sống, ta vô tình bôi đen sự sống và gây tâm trạng chán ghét đối với sự sống. Ta phải làm ngược lại. Ta phải tán dương vô thường, vô ngã và duyên sinh như những điều kiện tất yếu của sự sống, ta phải hoan hô chúng. Chỉ khi nào ta không thực chứng được chúng, ta mới bị ràng buộc vào tham đắm và khổ đau mà thôi.

Kinh Bảo Tích trong tác phẩm Ca Diếp Vấn (Ratnakutasutra kasyaparivarta) có đưa ra ví dụ một người cầm cục đất ném vào con chó. Con chó bị cục đất liệng trúng, chạy theo cục đất mà sủa một cách tức tối. Con chó không biết rằng thủ phạm làm cho nó đau không phải là cục đất mà là người ném đất. Kinh dạy: phàm phu và nhị thừa cứ tưởng năm uẩn là nguồn gốc của khổ đau, nhưng thực ra nguồn gốc của khổ đau là sự không thấu hiểu về tính cách vô thường, vô ngã và duyên sinh của ngũ uẩn. Do không thấu hiểu cho nên tham đắm, và vì vậy bị trói buộc.

Trong kinh ta thấy danh từ uẩn (khanda, phạn: skandha) và thủ uẩn (upadanakkhadha, phạn: upadanaskandha). Năm uẩn tức là năm yếu tố tạo nên sinh mạng, và thủ uẩn là năm yếu tố như đối tượng chấp thủ, chấp thủ nghĩa là vướng mắc. Nguồn gốc của khổ đau không phải là uẩn mà là chấp thủ.

Vì lầm lẫn cho nên thay vì đối trị với tâm chấp thủ, có người đã xoay lại đối phó với trần và uẩn, do đó sinh ra sợ hãi sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, và chán ghét sắc, thọ, tưởng, hành và thức.

Bụt là người sống an lạc, mạnh khoẻ và tươi vui. Người sống thảnh thơi và không vướng bận vào bất cứ một cái gì. Chính vì sống không vướng bận vào bất cứ một cái gì nên người mới sống thảnh thơi và an lạc. Bụt luôn luôn có nụ cười trên môi và sự có mặt của Bụt làm tươi mát cả hoàn cảnh chung quanh người.

Có nhiều đoạn kinh cho ta thấy Bụt rất yêu đời và người biết thưởng thức những cái đẹp chung quanh người. Nhiều lần Bụt chỉ cho thấy Ananda thấy những cảnh đẹp như cảnh mặt trời lặn trên núi Thứu, những cánh đồng lúa chín vàng với những bờ cỏ xanh, cảnh trí xanh mát của tu viện Trúc Lâm, thành phố Vesali xinh xắn... người không hề sợ cái đẹp, bởi vì người thấy được tự tính vô thường của mọi cái đẹp cũng như mọi cái không đẹp, và vì vậy người không bị vướng mắc. Người không đuổi theo bất cứ một cái gì và người cũng không cần trốn chạy bất cứ một vật gì. Con đường giải thoát không phải là con đường trốn chạy ngũ uẩn mà là con đường trực tiếp đối diện với ngũ uẩn để quán chiếu và khám phá ra tự tính của chúng.

Nếu ta cắt những bông hoa ngoài vườn vào để trang trí phòng khách của ta, đó là vì ta thấy những bông hoa ấy đẹp. Ta phải thẳng thắn nói như vậy. Ta không thể dối lòng ta mà nói: những bông hoa này tuy đẹp, nhưng cái đẹp của chúng cũng mong manh như chúng. Mai mốt khi các bông hoa này tàn thì cái đẹp của chúng cũng tàn theo chúng. “ta nói như thế vì ta thấy như thế, cho nên khi các bông hoa héo tàn và cái đẹp của các bông hoa không còn nữa, ta sẽ không thấy khổ đau và buồn chán. Và vì thấy được tính vô thường của các bông hoa cho nên ta càng thấy rõ được cái đẹp của các bông hoa và ta càng trân quý sự có mặt của cái đẹp ấy.

Quán chiếu về tính vô thường của vạn vật, không phải là để từ khước vạn vật mà là để tiếp xử với vạn vật với tuệ giác, nghĩa là không với thái độ tham đắm và vướng mắc.

Phương pháp của kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm không phải là phương pháp vật lộn với sự tham đắm và vướng mắc mà là phương pháp quán chiếu tự tính của vạn pháp. Phương pháp pháp này là tiếp xúc với sự vật để quán chiếu về tự tính vô thường, vô ngã và duyên sinh của chúng. Một khi đã chứng thực được các tự tính ấy, ta vượt được tham đắm và vướng mắc mà khỏi cần phải vật lộn một cách mệt nhọc với tham đắm và vướng mắc.

Giải thoát trong đạo bụt là giải thoát bằng sự tỉnh thức và bằng sự hiểt biết, và vì vậy hành giả không cần cực nhọc vật lộn với tham đắm. Hai kinh căn bản về thiền quán là kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm và kinh Quán Niệm Hơi Thở đều toả chiếu nguyên tắc ấy. Khi có tâm niệm tham dục thì ý thức là mình đang có tâm niệm tham dục, “đó là lời dạy của kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm”. Ta đang thở vào và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta”, đó là lời dạy của kinh Quán Niệm Hơi Thở. Nhận diện tâm niệm tham dục, quán chiếu về thực tính của tâm niệm ấy và của đối tượng tham dục, ta sẽ thấy được tính vô thường, vô ngã và duyên sinh của chúng và ta sẽ không còn bị tâm niệm ấy khống chế nữa.

Có những thế hệ học giả và hành giả đã từng diễn tả đạo Bụt như một con đường diệt dục và con người giải thoát được họ miêu tả như một vị La Hán gầy gò, da thịt nhăn nheo, không còn nhựa sống. Ta định nghĩa thế nào là dục? Nhịn đói ba ngày, ta thèm ăn cơm, cái đó có phải là dục không? Đói thì ăn, khát thì uống... điều ấy có đi ngược lại với đạo lý giải thoát không? nếu điều ấy đi ngược với giáo lý giải thoát, đạo Bụt há chẳng phải là con đường trốn tránh và tiêu diệt sự sống?

Ta biết rõ ăn uống là những động tác cần thiết để nuôi dưỡng thân thể và làm cho thân thể khoẻ mạnh. Nhưng ta cũng biết rằng ăn và uống có thể đem tới sự tàn hoại thân thể trong trường hợp ta ăn uống quá độ, nhất là khi những thức ta ăn và uống có tác dụng độc hại cho cơ thể. Vậy thì ta có thể nói: ăn và uống như thế nào để làm cho thân thể khoẻ mạnh, đó là đi đúng đạo lý giải thoát, còn ăn và uống làm sao mà gây khổ đau cho bản thân ta và cho người khác, đó là đi ngược với đạo lý giải thoát. Trong trường hợp thứ nhất, tham dục không có mặt, trong trường hợp thứ hai, tham dục có mặt.

Vì chống lại hình ảnh vị La Hán diệt dục, gầy gò, chỉ còn da bọc lấy xương, nhiều thế hệ học giả và hành giả đã đưa ra hình tượng các vị Bồ Tát tươi tắn, mạnh khoẻ, xinh đẹp và tràn đầy sức sống. Hình ảnh các vị Bồ Tát rất gần với hình ảnh Bụt, đi vào trong cuộc đời với từ bi trong tâm và với một nụ cười trên môi. Bụt tuy có sống độc cư, tuy có yêu mến sự độc cư nhưng cho đến năm tám mươi tuổi, người không bao giờ từ chối đi sâu vào cuộc đời để hoá độ.

Thấy một cảnh mặt trời lặn đẹp và biết thưởng thức cái đẹp ấy, đó không phải là dục, nếu ta “an trú một cách tự do, không bất cứ một thứ gì trong cuộc đời làm vướng bận. (kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm). Thấy được tự tính vô thường, vô ngã và duyên sinh của vạn vật rồi thì ta đạt tới sự thảnh thơi đó. Bơi trong một dòng sông mát, uống một ly nước trong, ăn một trái cam ngọt, và biết thưởng thức cái mát mẻ và cái ngọt ngào ấy, đó cũng không phải là đục, nếu ta đã đạt tới sự không vướng mắc kia.

Sở dĩ tôi đã nói hơi dài về ý trên là tại vì trong đạo Bụt Nam Truyền, và cả ở trong đạo bụt Bắc Truyền nữa, nhiều thế hệ học giả và hành giả đã tỏ ra sợ sự an lạc, không dám thực tập sự an lạc. Sau đây xin trình bày bài tập thứ mười về sự thực tập an lạc.


Bài tập thứ mười: bài tập này nhằm mục đích tạo ra sự thoải mái và an lạc trong thân tâm để chữa trị những thương tích trong thân thể và trong tâm hồn, và cũng để nuôi lớn mình bằng pháp lạc và có thể đi xa trên con đường thực hiện. Bài tập này rút ra trong tụng bản II của kinh. Khi đã chấm dứt được những bận rộn nhiễu nhương và phiền toái của đời sống, khi đã chấm dứt được những theo đuổi tham dục và những tư tưởng hận thù, hành giả vào rừng hoặc đóng cửa tịnh thất và ngồi lại trong tư thế hoa sen. Nắm lấy hơi thở, hành giả thấy được niềm thảnh thơi của mình, từ đó trong tự thân phát khởi một nguồn hỷ lạc. Hỷ là mừng vui, lạc là hạnh phúc. Hành giả có thể thực tập theo những hơi thở sau đây:
Ta đang thở vào và làm cho toàn thân ta an tịnh, ta đang thở ra và làm cho toàn thân an tịnh (xin xem lại bài tập thứ tư).
Ta đang thở vào và cảm thấy mừng vui, ta đang thở ra và cảm thấy mừng vui (đây là hơi thở thứ năm trong kinh Quán Niệm Hơi Thở).
Ta đang thở vào và cảm thấy an lạc, ta đang thở ra và cảm thấy an lạc (đây là hơi thở thứ sáu trong kinh Quán Niệm Hơi Thở).
Ta đang thở vào và làm cho tâm ý ta hoan lạc, ta đang thở ra và làm cho tâm ý ta hoan lạc (đây là hơi thở thứ mười trong kinh Quán Niệm Hơi Thở)


Trong khi thực tập như thế, hành giả thấy chất liệu của sự hỷ lạc thấm vào từng tế bào của cơ thể mình. Mời bạn đọc đoạn này trong tụng bản II: “vị khất sĩ quán thân như thân nhờ xa lìa (cuộc sống náo loạn và dục vọng) mà niềm hỷ lạc được phát sinh và thấm nhuần đầy dẫy trong châu thân. Trong thân thể này niềm hỷ lạc do sự xa lìa (cuộc sống náo loạn và dục vọng) mà phát sinh ấy không chỗ nào là không phổ biến, như một người hầu tắm sau khi bỏ bột tắm vào chậu, nhồi bột tắm ấy với nước, cho đến khi cục bột tắm không có chỗ nào là không thấm nhuận chất nước. Vị khất sĩ cảm thấy niềm vui (do sự xa lìa cuộc sống náo loạn và dục vọng mà phát sinh) đầy dẫy trong châu thân minh, không chỗ nào là không thấm nhuận. “Niềm hỷ lạc phát sinh do sự xa lìa nếp sống náo loạn và dục vọng sẽ được tăng cường và thấm nhuận hơn khi hành giả thực hiện được sự chuyên chú của tâm ý:

“Lại nữa, các vị khất sĩ! vị khất sĩ quán thân như thân thấy nguồn Hỷ Lạc do Định phát sinh thấm nhuần đầy dẫy trong châu thân mình, trong thân thể ấy, niềm hỷ hạc do định phát sinh không chỗ nào mà không phổ biến. Như một dòng suối trong núi, trong sạch không ô nhiễm, chảy ra đầy dẫy khắp cả bốn mặt, những nơi không có nẻo để nước chảy vào thì nước của dòng suối ấy lại từ dưới phun lên, thấm nhuần núi non, không nơi nào là nước không chảy đến...”

Ban đầu, trạng thái vui mừng (hỷ) làm phát sinh trạng thái hạnh phúc (lạc), nhưng khi trạng thái hạnh phúc đã thật sự có mặt thì tâm niệm vui mừng lắng đọng xuống để cho trạng thái hạnh phúc trở nên vững chãi và sâu đậm hơn, bởi vì dù sao sự vui mừng vẫn còn mang ít nhiều tính chất suy tư và kích thích:

“Vị khất sĩ quán thân như thân thấy niềm hạnh phúc (lạc) phát sinh do sự vắng mặt của tâm trạng vui mừng (hỷ), niềm hạnh phúc này phát triển và thấm nhuần đầy dẫy trong tự thân, trong thân thể vị khất sĩ này không có chỗ nào là niềm hạnh phúc (lạc) ấy không thấm nhuần đầy dẫy, như các loại hoa sen, sen xanh, sen hồng, sen đỏ, sen trắng sinh ra từ trong nước, lớn lên từ trong nước. Rễ sen, ngó sen, lá sen và hoa sen đều thấm nhuần chất nước, không có chỗ nào (trong cây sen) mà nước không thấm nhuận. Như thế, niềm hạnh phúc phát sinh từ sự vắng mặt của tâm trạng vui mừng (hỷ) thấm nhuần vào toàn thân của vị khất sĩ, không nơi nào mà niềm hạnh phúc ấy không phổ biến...”

Trong lúc thiền quán, hành giả thấy tâm ý mình an lạc và thanh tịnh. Hành giả đem cái ý thức an lạc và thanh tịnh này mà bao trùm cả cơ thể mình để cơ thể mình cũng được thấm nhuần sự an lạc và thanh tịnh kia:

“Lại nữa, các vị khất sĩ! vị khất sĩ quán thân như thân lấy tâm thanh tịnh và ý thức về sự thanh tịnh ấy của mình mà bao trùm cả thân thể mình, làm cho toàn thân thể mình không có chỗ nào mà không được bao trùm bởi tâm thanh tịnh ấy, cũng như một người kia choàng lên một cái áo dài tới bảy hoặc tám sải, từ đầu tới chân, không nơi nào mà thân thể không được chiếc áo ấy bao phủ. Vị khất sĩ kia cũng thế, lấy tâm thanh tịnh mà bao phủ toàn vẹn thân thể của mình, chẳng nơi nào của cơ thể mà không được (tâm thanh tịnh) che chở. Như thế, vị khất sĩ quán thân như thân, bên trong cũng như bên ngoài, thiết lập chánh niệm nơi thân, có biết, có thấy, có sáng, có đạt, đó gọi là vị khất sĩ quán thân như thân”.

Như ta đã biết, phép quán này có tác dụng nuôi dưỡng ta bằng hỷ lạc và chữa trị những thương tích trong ta. Nhưng ta sẽ không chần chừ lưu trú mãi trong hỷ lạc ấy. Một lúc nào đó, ta phải rời bỏ hỷ và lạc để đi vào công trình quán chiếu. Hỷ và lạc cũng do các điều kiện sinh vật lý tạo thành, và cũng vô thường như các hiện tượng sinh vật lý. Chỉ khi nào nhờ quán chiếu mà ta thực chứng được tự tính vô thường, vô ngã và duyên sinh của vạn pháp, ta mới thực sự đạt tới giải thoát và thảnh thơi.


Bài tập thứ mười một: bài tập này giúp ta tiếp xúc với những cảm giác của ta và nhận diện được chúng.

Cảm thọ có ba loại: lạc thọ, tức là những cảm giác dễ chịu, khổ thọ, những cảm giác khó chịu và xả thọ, những cảm giác không dễ chịu cũng không khó chịu. Phương pháp của bài tập này là nhận diện và tiếp xúc với những cảm thọ ấy khi chúng phát sinh, trở thành và hoại diệt.

Mỗi khi có một khổ thọ, hành giả chớ vội tìm cách xua đuổi hay xa lánh nó. Hành giả trở về với hơi thở có ý thức và quán chiếu:

“Thở vào, ta biết là một khổ thọ đã phát sinh trong ta, thở ra, ta biết là khổ thọ ấy đang có mặt trong ta”.

Mỗi khi có một lạc thọ hay một xả thọ, hành giả cũng thực tập quán chiếu theo cách ấy. Hành giả biết rằng cảm thọ ấy là mình, mình đang là cảm thọ ấy, mình không tham đắm vào nó mà cũng không ghê sợ ghét bỏ nó. Đó là phương pháp hữu hiệu nhất để tiếp xúc với những cảm thọ của mình. Gọi tên cảm thọ là khổ thọ, lạc thọ hay xả thọ, gọi thầm trong trí thôi, ta nhận diện được cảm thọ ấy một cách rõ ràng và sâu sắc hơn. Thái độ không ôm chặt cũng không ruồng bỏ của ta đối với cảm thọ là thái độ hành xả (upekkha, phạn: upeksa) rất quan trọng trong thiền tập. Hành xả thuộc về một trong bốn tâm vô lượng là từ, bi, hỷ và xả.

Con người là một hợp thể của năm uẩn tức là sắc thân (sắc), cảm thọ (thọ), tri giác (tưởng), tâm tư (hành) và nhận thức (thức). Mỗi uẩn là một dòng sông trong đó mỗi giọt nước là một tế bào, tất cả đều đang chuyển biến và trôi chảy. Trong ta cũng có một dòng sông cảm thọ, nơi ấy mỗi giọt nước là một cảm thọ, hoặc dễ chịu hoặc khó chịu hoặc không dễ chịu cũng không khó chịu. Các cảm thọ này nối tiếp nhau mà phát sinh, có mặt rồi tan biến. Quán chiếu về cảm thọ trước hết là ngồi bên bờ dòng sông cảm thọ để nhận diện từng cảm thọ đang sinh trưởng và hoại diệt trong dòng sông ấy, để duy trì ý thức về sự có mặt của chúng.

Cảm thọ của ta thường đóng vai trò hướng dẫn tâm ý ta: tư tưởng ta hay phát sinh và nối tiếp nhau quanh cảm thọ đang có mặt. Khi ta phát khởi chánh niệm về cảm thọ ấy thì tính trạng bắt đầu thay đổi: cảm thọ không còn có mặt một mình trong ta nữa, cảm thọ bây giờ đang diễn biến dưới ánh sáng của ý thức chánh niệm. Cảm thọ ấy không còn sai sử và lung lạc được ta dễ dàng như trước nữa, trái lại nó bắt đầu chịu ảnh hưởng của ý thức quán chiếu của ta. Chủ quyền của ta được khôi phục lại, đó là hiệu năng đầu tiên của sự quán chiếu. Nếu ta tiếp tục quán chiếu về cảm thọ ấy thì ta sẽ thấy được nguồn gốc và bản chất của nó. Đó là hiệu năng thứ hai của công trình quán chiếu. Thấy được tự tính của một vật, là được giải thoát và không còn bị vật ấy sai sử và lung lạc nữa.

http://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/giang-kinh/con-duong-chuyen-hoa/phuong-phap-hanh-tri/quan-chieu-than-the