Thứ Hai, 8 tháng 7, 2013

Vấn đề thời gian dưới cái nhìn của Phật giáo và Khoa học


Minh Chi 



Thầy Matthieu Ricard
Trong cuộc đối thoại về mối tương quan và điểm gặp gỡ giữa khoa học với Phật giáo dưới đây, giáo sư Trịnh Xuân Thuận, một nhà vật lý thiên văn học nổi tiếng người Việt quốc tịch Mỹ đã nói không úp mở rằng, các vấn đề về thời gian và phương hướng vận động của nó còn lâu mới được giải quyết và còn bị bao bọc trong một màn sương mù dày đặc. Vì chính giáo sư Thuận đã thừa nhận như vậy, cho nên trong bài giới thiệu này, tôi chỉ tập trung vào một số vấn đề mà các nhà vật lý học hiện đại nói chung đã đồng thuận, tránh những vấn đề còn đang rối rắm, và hạn chế bài giới thiệu chủ yếu vào quan điểm của Phật giáo đối với thời gian, do thầy Matthieu Ricard trình bày. Đó cũng là phần trong bài có ích nhiều nhất đối với các Phật tử Việt Nam chúng ta. 
GS. Trịnh Xuân Thuận
Ngành vật lý hiện đại đã chuyển từ khái niệm thời gian tuyệt đối và phổ quát của Newton sang khái niệm thời gian tương đối và mềm dẻo, uyển chuyển của Einstein, thời gian có thể biến đổi chậm hay nhanh theo sự di chuyển của ngưòi quan sát, và cường độ của trọng trường nơi người quan sát đang đứng.

Ngoài ra, còn có sự phân biệt mà mọi người chúng ta đều cảm nhận giữa thời gian vật lý và thời gian tâm lý. Dựa vào lý gì mà đạo Phật bác bỏ thời gian tuyệt đối, và dùng thời gian tâm lý để khích lệ cuộc sống tâm linh. Phải chăng thời gian chỉ là một cấu trúc của tâm thức?

Đó là chủ đề trao đổi giữa Giáo sư Trịnh Xuân Thuận, một nhà bác học vật lý người Mỹ gốc Việt, hiện là giáo sư Trường Đại học Virginia–Mỹ và Tiến sĩ sinh học, thầy Matthieu Ricard, hiện là tu sĩ tại một tu viện Nepal.

GS. Trịnh Xuân Thuận (GS Thuận): Thời gian là một khái niệm không phải để nắm bắt, như Thánh Augustin đã từng nói ngay từ đầu thế kỷ IV sau Tây lịch: “Thời gian là gì? Khi không ai hỏi tôi, thì tôi biết. Nhưng khi người ta hỏi tôi và tôi muốn giải thích thì tôi không còn biết nữa”.

Nhà vật lý học thường xuyên sử dụng khái niệm thời gian. Từ thế kỷ XVI, Galileo đã dùng thời gian như một yếu tố vật lý cơ bản để sắp xếp và gắn liền bằng toán học những kết quả đo đạc của ông đối với các vật thể vận động. Nhưng chỉ đến thế kỷ XVII, Newton với các quy luật cơ học của ông mới đưa ra được một định nghĩa minh bạch về thời gian. Ông mô tả sự vận động của các vật thể trong không gian bằng cách xác định vị trí và tốc độ của chúng ở các thời điểm nối tiếp nhau. Thòi gian của Newton là độc nhất, tuyệt đối và có giá trị phổ quát khắp mọi nơi. Thời gian và không gian tách biệt hẳn nhau. Thời gian trôi qua mà không có sự tác động qua lại với không gian.

Năm 1905, Einstein công bố thuyết Tương đối hạn chế (thuyết Tương đối hẹp) của ông và bác bỏ khái niệm một thời gian tuyệt đối. Với Einstein, thời gian mất tính chất cứng nhắc và phổ quát. Nó thay đổi tùy theo sự di chuyển của người quan sát. Con ngưòi càng di chuyển nhanh thì thời gian đối với nó càng chậm lại. Một người ngồi trên một con tàu vũ trụ bay với tốc độ 87% tốc độ ánh sáng, thì thời gian đối với người đó có tốc độ chậm đi một nửa. Anh ta già chậm gấp hai lần người anh em sinh đôi đang ở dưới Trái đất. Sự khác biệt đó rất là thực tế. Người anh em ở dưới Trái đất sẽ có nhiều nếp nhăn và tóc bạc hơn. Trái tim của anh ta sẽ đập nhiều nhịp hơn, anh ta ăn nhiều bữa cơm hơn và uống nhiều hơn ...

Theo thuyết Tương đối hạn chế của Einstein, thì tốc độ càng tăng, thời gian càng chậm lại. Tình hình không thấy rõ, với sự thay đổi bình thường của tốc độ di chuyển trong cuộc sống thường ngày, nhưng lại thấy rất rõ với những tốc độ gần với tốc độ ánh sáng là 300.000 km/giây. Với tốc độ đạt 99% tốc độ ánh sáng thì thời gian chậm tới 7 lần!

Einstein còn cho biết, thời gian và không gian tác động hỗ tương lẫn nhau. Khi thời gian chậm lại thì không gian cũng thu hẹp lại. Đối với người ngồi trên con tàu vũ trụ, bay với tốc độ bằng 87% tốc độ ánh sáng, thì không những anh ta chậm già đi gấp hai lần, mà con tàu vũ trụ cũng bị thu nhỏ gấp hai lần, đối với người anh em sinh đôi, đang sống dưới Trái đất.

Thời gian chậm lại không phải chỉ do tốc độ mà còn do lực hấp dẫn. Khi con tàu vũ trụ tiến lại gần rnột lỗ đen, ở đó có lực hấp dẫn rất lớn, thì đồng hồ ở trên tay nhà phi hành vũ trụ chạy chậm lại!. Thời gian cũng mất giá trị phổ quát. Thời gian khác biệt nhau đối với mỗi người. Hiện tại đối với tôi có thể là quá khứ đối với một người thứ hai và là tương lai đối với một người thứ ba. Đối với Einstein, thời gian trôi đi chỉ là ảo ảnh. Năm 1955, khi người bạn thân của Einstein là Michele Besso qua đời, ông phát biểu cảm tưởng của mình như là để trút hết nỗi đau buồn: “Đối với chúng tôi là các nhà vật lý học, mọi khác biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ là ảo ảnh dai dẳng ngoan cố . . .”. Đối với nhà vật lý học hiện đại, thời gian như ngừng lại không trôi, nó dừng lại im lìm như một con đường thẳng vô tận ở cả hai chiều. 

Thầy Matthieu Ricard (thầy Matthieu): Đối với Đạo Phật, thời gian vật lý và tuyệt đối chỉ là một khái niệm không tồn tại đích thực. Không thể nắm bắt được thời điểm hiện tại vì nó không đủ bề dày để có điểm bắt đầu và điểm kết thúc. Thời gian thuộc về lĩnh vực chân lý tương đối của thế giới hiện tượng và chỉ là một khái niệm. gắn liền với kinh nghiệm của chúng ta, với những hệ chuẩn mực đặc biệt. Thời gian chỉ là một phương thức nắm bắt các hiện tượng, và không thể tồn tại độc lập tách rời khỏi các hiện tượng. 

GS Thuận: Có thể phân biệt thời gian tâm lý (thòì gian chủ quan) với thời gian vật lý (thời gian khách quan), không tùy thuộc vào tâm thức chúng ta, là thời gian của đồng hồ. Người ta đo đạc nó dựa vào một sự vận động đều đặn như sự vận động của Trái đất trên trục của nó. Nếu không có chuẩn mực để đo đạc, thì không thể có thời gian. Trước Big Bang(l), trước khi có vũ trụ sanh khởi, đặt vấn đề thời gian là vô nghĩa, bởi lẽ không có hiện tượng nào có thể dùng làm chuẩn mực để đo đạc. Thuyết Big Bang cho rằng, thời gian và không gian cùng sinh khởi với vũ trụ. Ngay Thánh Agustin, từ thế kỷ IV trước Tây lịch đã có tư duy tiến bộ cho rằng thế giới và thời gian cùng sinh khởi một lần. Thế giới được tạo ra không phải trong thời gian mà là với thời gian. Phải thừa nhận đó là một khái niệm tiến bộ về thời gian, khá gần gũi với tư tưởng của thiên văn học hiện đại.

Trái lại, thời gian mà chúng ta cảm nhận từ trong tâm thức chúng ta là thời gian chủ quan, thời gian tâm lý, nó diễn ra nhanh hay chậm tùy theo tâm trạng của mỗi người. Những ngày giờ buồn chán hay sợ hãi hình như kéo dài hàng thế kỷ, còn những năm tháng hạnh phúc hình như trôi qua trong nháy mắt. Đối với người già, thời gian càng trôi qua nhanh chóng. Tuổi càng lớn, thời gian tâm lý càng rút ngắn. Các triết gia ở các thời đại khác nhau đều cảm nhận rõ sự khác biệt đó giữa cái gọi là thời gian khách quan, thời gian của đồng hồ với thời gian tâm lý thời gian mà tâm con người cảm nhận tùy theo trạng thái tâm lý của con người. 

Thầy Matthieu: Kant cũng nói là các khái niệm thời gian và không gian đều tùy thuộc vào mối liên hệ giữa chúng ta và thế giới tự nhiên, chứ không phải là thuộc tính riêng có của tự nhiên. Ông nói: “Thời gian chỉ là một điều kiện chủ quan của nhận thức trực cảm của chúng ta, nó không tồn tại ở ngoài chủ thể”.

Các triết gia Phật giáo cũng như vậy, họ xem thời gian không phải là một thực tại cứu kính, không thể tồn tại tách biệt hiện tượng và người quan sát. Khi nói điểm bắt đầu của thời gian tức mặc thiên thừa nhận tính chất ảo ảnh của thời gian rồi. Vì có thể hỏi: “Trước điểm bắt đầu đó có gì?”. Câu hỏi vô nghĩa đó cho thấy chúng ta đối diện thời gian không phải như một thực tại mà như một cấu trúc của tâm thức. 

GS Thuận: Ngoài tâm trạng như trí nhớ, sự chú ý hiện tại, sự chờ đợi tương lai, ngoài những tâm trạng đó thì không có thời gian. Hơn nữa, thời gian tâm lý rất khác với thời gian vật lý, thời gian của đồng hồ. Tại sao lại có sự khác biệt giữa hai loại thời gian đó? 

Thầy Matthieu : Sự khác biệt đó chỉ là một sự bí mật nếu chúng ta nghĩ rằng chúng ta tách biệt thế giới. Tôi muốn hỏi phải chăng thòi gian vật lý chỉ là do thời gian tâm lý trừu tượng hóa mà thành. Còn thời gian tâm lýí thì nảy sinh từ sự khác biệt giữa nhũng điều đã được làm và nhũng điều chờ đợi sẽ xảy ra. Nhưng các nhà vật lý lại muốn giải thích cuộc sống của chúng ta bằng vật lý và biến khái niệm thời gian vốn là ảo ảnh thành một cái gì thực tại. 

GS Thuận: Có thể chăng là do hoạt động của bộ não khiến chúng ta cảm nhận có thời gian trôi qua. Các dữ kiện của thế giới khách quan được các cảm quan chuyển tới bộ não rồi được bộ não xây dựng sắp xếp thành một hình ảnh tâm thức. Hoạt động tạo hình ảnh đó của bộ não là kết quả của sự hoạt động đồng thời của các vùng khác nhau trong bộ não, mỗi vùng làm một chức năng riêng biệt. Theo nhà thần kinh học Francisco Varela, chính tính phức tạp của nhiệm vụ kết hợp các vùng tức các bộ phận cấu thành khác nhau của bộ não khiến chúng ta có cảm giác thời gian. Thời gian vật lý cũng như thời gian tâm lý chỉ có một phương vận động là bay về phía trước như mũi tên sau khi tách rời khỏi cây cung cũng lao thẳng về phía trưóc. Do vậy người ta gọi thời gian là mũi tên thời gian.Chính tính không thể chuyển hướng của thời gian khiến chúng ta sợ chết. Mọi người đều biết mình đi từ cái nôi đến cái mồ.

Thầy Matthieu: Phật giáo sử dụng thời gian tâm lý để làm chủ tâm trạng sợ chết và khích lệ sự siêng năng tu tập. Phật giáo không né tránh, trái lại khuyến khích chúng ta quán tưởng cái chết như một sự kiện bình thường khiến cho khi giờ chết đến chúng ta tiếp thu cái chết với thái độ bình thản.

Ở Tây Tạng, các tu sĩ thường lật úp chén nước sau khi uống xong mỗi buổi tối trước khi đi ngủ để phòng sáng mai có thể ngủ luôn không dậy nữa! Lý do là ở Tây Tạng khi có một người chết thì những người chứng kiến đều lật úp chén nước.

Mọi người hãy cảm thấy vui vì sau khi thở ra–lại có thể thở vào được. Như vậy, mọi người đều được giáo dục về khả năng cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào. Thở ra rồi còn thở vào được, chỉ điều đó thôi cũng làm cho chúng ta sung sướng rồi. Ngài Long Thọ viết trong “Bức thư gửi cho một người bạn”:

“Nếu cuộc sống này phải chịu hàng nghìn phiền não, khổ đau.

Nó còn bấp bênh hơn bọt nưóc trên sông,

Thì kỳ diệu thay! Sau một đêm ngủ lại được thức dậy thở vào thở ra thoải mái”.

Đức Phật trong tập kinh Udanavarga:

“Tất cả mọi cái chúng ta tích lũy cuối cùng sẽ phân tán

Mọi cái chúng ta xây dựng cuối cùng cũng đổ sập,

Cái tập họp rồi cũng chia ly,

Mọi cái sống cuối cùng cũng chết”

Thời gian trôi không trở lại sẽ kích thích hạnh tinh tấn trong mỗi người.

Padmasambava (Liên Hoa Sinh), vị đạo sư đã du nhập đạo Phật vào Tây Tạng, viết:

“Cũng như dòng suối chảy ra biển,

Như mặt trời và mặt trăng di chuyển tới các rặng núi nơi mặt trời lặn,

Như ngày và đêm, giờ phút đang thoát xa,

Đời sống con người cũng trôi qua không thể khác”

Đức Phật dùng hình ảnh một lực sĩ lấy tay bắt 4 mũi tên do các xạ thủ bắn đi từ các hướng khác nhau nhưng Phật nói: “Còn nhanh hơn là: thời gian trôi qua và cái chết đến”. Vì vậy, đối với Phật tử, thời gian là cái quý nhất không được để lãng phí do thái độ bàng quan của nhũng người quên mất cái chết đang chờ đợi họ.

(Theo L'infini dans la paume de la main chương 9, bản tiếng Pháp, Matthieu Ricard - Trịnh Xuân Thuận)

(1) Big Bang: Vụ nổ đầu tiên sinh ra vũ trụ này.

Xin đọc thêm:

Vô Tận trong lòng bàn tay. Từ thuyết Ðại bùng nổ đến Giác ngộ

The Beginning of Time , Stephen Hawking: http://www.hawking.org.uk/lectures/bot.html

http://vietsciences.free.fr/timhieu/khoahoc/astronomie/vandethoigianphatgiao.htm