Thứ Tư, 10 tháng 10, 2012

Nhân duyên với Kailash tự thuở nào?



Tôi bắt đầu có vài khái niệm về Tây Tạng cách đây khoảng mười năm. Có lẽ những thông tin đầu tiên lại xuất phát từ cuốn sách “Suối nguồn tươi trẻ” của Peter Kelder. Tôi vẫn khá kiên trì tập luyện năm thức tập của Tây Tạng theo hướng dẫn trong sách này và hẳn nhiên cảm nhận được sự tăng cường sức mạnh về thể xác cũng như tinh thần. Từ đó tôi để ý đến hai chữ Tây Tạng nhiều hơn. Vậy là “Con đường mây trắng” của Anagarika Govinda do Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách dịch, “Người Tây Tạng nghĩ về cái chết” (Bardo Thodol), “Trong vòng tay Sambala”, “Chúng ta thoát thai từ đâu” của Erono Mundasep và rất nhiều cuốn sách viết về Tây Tạng, Ấn Độ, bắt đầu chiếm nhiều chỗ trong tủ sách của tôi.



Giáo sư Spalding với cuốn “Hành Trình về Phương Đông” đã làm “đảo lộn” suy nghĩ của tôi về con người và vũ trụ. Ông thường xuyên đề cập đến những vị Tôn Sư ngoài trăm tuổi vẫn đang ẩn tu trên những ngọn núi tuyết phủ trong dãy Hy Mã Lạp Sơn. Còn Govinda và Mundasep đều viết nhiều về một ngọn Núi Thiêng, nơi được xem là Núi Tu-Di trên quả địa cầu, là “tâm điểm của mọi xứ sở”, nơi trú xứ của Thần Shiva, của các vị Thiền Phật và Bồ Tát. Một ngọn núi mà theo Govinda là “không có núi nào có thể sánh”. Ngọn Núi Thiêng đó có tên là Kailash, mà trong tác phẩm của mình cũng như các bản dịch, anh Nguyễn Tường Bách gọi là Ngân Sơn.

Ước mơ gần như “hoang tưởng” được đến chiêm ngưỡng ngọn Núi Thiêng, nơi là “trung tâm của thế giới” có lẽ bắt đầu manh nha và lớn dần trong tôi từ những ngày tháng đó.

Và rồi, điều cần đến phải đến. Đầu tháng 6 năm 2010 tôi được gặp anh Nguyễn Tường Bách nhân dịp anh từ Đức về Việt Nam chịu tang bố. Tôi nhớ đã gặp anh tại nhà một người bạn thân của anh. Tôi vốn rất hâm mộ anh Bách sau khi đọc khá nhiều tác phẩm anh viết và dịch; vẫn mong một ngày được gặp anh. Trước đó, khi biết tin bố anh vừa mất, tôi chủ động google, tìm trên các diễn đàn được địa chỉ email của anh. Tôi gửi email chia buồn và anh cũng sớm phúc đáp với lời cảm ơn chân thành. Cuộc sống vốn diệu kỳ vậy đó. Biết tôi mê anh Bách, anh Trần Sỹ Chương, một người anh của tôi đã tạo điều kiện để tôi được gặp anh. Tôi còn nhớ khi vừa vào nhà anh Thu, cúi chào và giới thiệu tên mình, anh đã hỏi “hóa ra Tuấn này là Tuấn đã email cho anh à?”. Nhân duyên cho chuyến hành hương chiêm bái Kailash (Ngân Sơn) hẳn đã nảy mầm từ hôm ấy.


Hình thành ý tưởng chiêm bái Ngân Sơn 

Người hình thành nên ý tưởng đi chiêm bái Ngân Sơn đương nhiên là anh Bách với sự ủng hộ của hai thành viên đầu tiên nằm trong “ban tổ chức” là chị Vinh-vợ anh và Trung Toàn, một cư sĩ và là Giám đốc một công ty du lịch tâm linh tại TPHCM. Sau lần gặp gỡ đầu tiên, tôi có dịp được gặp anh thêm vài lần nữa. Rồi một ngày, tôi được gặp đủ “ban tổ chức” cùng chị Ngọc Anh trong một chuyến viếng thăm và tiễn anh về Đức. Lúc này Trung Toàn đang chuẩn bị tổ chức một chuyến hành hương Ấn Độ kết hợp đảnh lễ Đức Đạt Lai Lạt Ma và Karmapa. Chị Ngọc Anh đã tham gia được chuyến đi này sau đó; còn tôi thì Ấn Độ vẫn là một mơ ước quá xa vời. 

Anh Bách, theo như lời anh kể thì chiêm bái Ngân Sơn là ước mơ cả đời của anh ấy. Nó đã bén rễ trong anh từ mười năm nay nhưng chưa có điều kiện thực hiện. Còn Toàn, anh là người đã mấy chục lần đi Ấn Độ, Nepal, Myanmar, Tây Tạng… nhưng cũng chưa một lần dám mơ đến Kailash. 

Núi thiêng Kailash 

Kailash ở đâu? Nó có gì ghê gớm, mê hoặc mà cuốn hút người ta đến vậy. Để được chiêm ngưỡng Ngân Sơn, hàng ngàn vạn người đã dám đánh cược cả mạng sống của mình. Biết bao lớp người già trẻ, đàn ông, đàn bà với mọi chủng tộc, màu da từ khắp nơi trên thế giới đã từng chấp nhận những gian khổ khủng khiếp, thậm chí có thể dẫn nguy hiểm chết người để một lần được đi nhiễu (Kora) quanh Ngân Sơn. 

Mãi sau này, trên hành trình trở về từ Manasarovar tới Nyalam, sau những xúc động tâm linh mãnh liệt, tôi cứ miên man suy nghĩ về một câu nói nào đó có thể tóm tắt được một cách ngắn gọn nhất về sự gian khổ, diễn đạt hết được sự khốc liệt, nguy hiểm của chuyến đi nhằm tôn vinh nhiều lớp người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em và người lớn tuổi đã vượt qua chính bản thân mình, đối mặt cái chết để hoàn thành ước nguyện Kailash Kora. Thật bất ngờ, không biết từ đâu và từ lúc nào trong đầu tôi bất chợt xuất hiện một ý nghĩ rằng: "Chinh phục Everest là ước mơ của người bình thường còn Kora một vòng quanh Kailash là ước mơ của kẻ phi thường”. Hẳn một giọng nói từ cõi xa xăm nào đó đã thì thầm vào tai tôi như vậy? Dù không dám “bất kính” với những người lớn tuổi, đôi lúc tôi cũng dùng chữ "bất thường" thay cho chữ "phi thường" để tự “cười nhạo” bản thân và “chế giễu” bao nhiêu con người khác vì đã dám cá cược cả mạng sống của mình cho một chuyến đi. Tôi vẫn chưa có dịp đi Everest nên dĩ nhiên không có cơ sở gì để so sánh. Nhưng quả thật, sau khi đi trọn một vòng Kora hơn 52 km suốt gần ba ngày hai đêm trong mưa tuyết và sự thiếu oxy trầm trọng để vượt qua đèo Dolma ở độ cao 5660m, tôi nghĩ hẳn đi Everest có thể nguy hiểm hơn nhiều nhưng cực khổ cũng chỉ đến vậy thôi. Do đó, dùng một câu ngắn gọn như vậy để cùng anh chị em trong đoàn "tự sướng" và “chém gió” với nhau hẳn cũng vui vui và không có gì là “quá đáng”. 

Về mặt vật lý là như vậy. Còn về mặt tâm linh, Everest đương nhiên không thể so sánh với Kailash. Mỗi năm có hàng trăm thậm chí hàng ngàn người từ khắp nơi trên thế giới đã lên dẫm đạp và xả rác trên đỉnh Everest (cũng như đỉnh Fansipan ở Việt Nam ?) nhưng theo tôi biết, cho đến nay chưa hề có ai chạm được đỉnh Kailash. Hẳn ngoài lý do về vật lý, Kailash là một tòa kim tự tháp khổng lồ dựng đứng, quanh năm tuyết phủ, rất khó tiếp cận thì còn vì lý do tâm linh, tín ngưỡng mà không ai có ý nghĩ cho phép mình xúc phạm tới đỉnh Núi Thiêng. Vậy nên, trong lối suy nghĩ “trẻ con” của tôi, Kailash Kora vẫn đáng mơ ước hơn nhiều so với “chinh phục” Everest.




Kailash “trinh nguyên” và linh thiêng cuối cùng cũng xuất hiện trong buổi trưa mùa thu hôm ấy, lúc thành viên cuối cùng của đoàn đi Kora về tới thị trấn Darchen.


Kailash cao 6,714m so với mực nước biển, là điểm linh thiêng được sùng bái nhất thế giới nằm ở Cực Tây của Tây Tạng, gần khu vực biên giới Ấn Độ-Tây Tạng và Nepal. Kailash được xem là Núi Tu-Di trên quả địa cầu, là trung tâm của Nam Thiệm bộ châu (Jambudvipa-thế giới loài người), là “tâm điểm của mọi xứ sở”. Kailash cũng được coi là một “siêu thánh địa” của cả bốn nền tôn giáo gồm Phật Giáo, Hindu Giáo, Đạo Jains và Đạo Bon với hàng tỉ tín đồ nhưng khá ít người đến chiêm bái vì điều kiện địa hình, thời tiết, khí hậu quá khắc nghiệt. 

Anagarika Govinda trong tác phẩm "Con đường mây trắng" đã viết rằng: "Danh tiếng của Ngân Sơn tỏa rộng và vượt trội lên mọi ngọn núi thiêng khác trên thế giới. Từ thuở xa xưa, nó là đích hành hương của người sùng tín. Không có núi nào có thể sánh với Ngân Sơn vì nó là chỗ nối của hai nền văn minh lớn nhất và lâu đời nhất của loài người, mà truyền thống của chúng trải qua hàng ngàn năm để tồn tại tới ngày nay: Ấn Độ và Trung Quốc. Đối với Ấn Độ giáo và Phật giáo thì Ngân Sơn là Trung tâm của thế giới... Với Ấn Độ giáo thì đó là trú xứ của thần Shiva, đối với Phật giáo thì nó là một Mandala vĩ đại của các vị Thiền Phật và Bồ Tát".

Tại sao Kailash lại được coi là trung tâm của thế giới mà không phải là Everest hay hàng chục những ngọn núi hùng vĩ khác cao hơn nhiều trong dãy Hy Mã Lạp Sơn? Vì nếu cắt bớt Everest (8,848m) mấy trăm mét thì nó sẽ chìm nghỉm, không gì khác biệt và chẳng thể nào phân biệt được nó với hàng vạn ngọn núi vô danh khác trùng trùng điệp điệp trong dãy Hy Mã. Dẫu không cao bằng Everest nhưng Ngân Sơn lại hoàn toàn khác biệt và vô cùng uy lực vì nó nằm ở một khu vực địa lý có một không hai trên thế giới này. 





Bản đồ vị trí núi Kailash, các con sông có nguồn từ Kailash và cao nguyên Tây Tạng.



Bản đồ tổng thể khu vực địa lý núi Kailash, hai Hồ thiêng và đầu nguồn bốn con sông.

Ghi chú: Khu vực vòng tròn với các chấm đỏ chính là đường đi Kora vòng quanh núi Kailash. Điểm cao nhất của hành trình này là đèo Dolma (Dolma La) cao 5660m.


Quần thể núi thiêng Kailash, hồ thiêng Manasarovar và Rakastal

Hồ thiêng Manasarovar


Hồ Rakastal hay còn gọi là Hồ Mặt Nguyệt, Hồ Dạ Xoa, Hồ ma quái… vì nó có hình dáng giống Mặt Trăng và không khí quanh hồ luôn u ám, buồn bã. Rakastal có diện tích 250km2 và nằm ở cao độ 4,560m so với mực nước biển, thấp hơn 20m so với Manasarovar. Rakastal được coi như là hồ song sinh Manasarovar. Như vậy, với Núi Kailash đứng giữa, hai hồ lớn ngay dưới chân và bốn con sông chảy ra bốn hướng, khu vực địa lý này đã trở thành một "tổng thể vô song" trên địa cầu của chúng ta.


Bốn con sông thiêng có nguồn từ Kailash

Phía Bắc: Sông Indus (chảy từ miệng Sư Tử) dài 3,200 km, trong đó 2% nằm trong địa phận Tây Tạng, 5% chảy qua theo hướng Tây Bắc qua lãnh thổ khu vực phía Bắc Ấn Độ, tới biên giới Ấn Độ-Pakistan, nó đột ngột đổi chiều và 93% chiều dài còn lại chảy gần như một đường thẳng từ cực Đông Bắc đến Cực Tây Nam xuyên suốt chiều dài đất nước Pakistan rộng lớn và đổ ra Ấn Độ Dương.

Phía Đông: Sông Yarlung Tsangpo (chảy từ hàm Ngựa), dài 2,840 km, được mệnh danh là "Everest của những con sông". Nó chảy dọc theo biên giới của Tây Tạng với Nepal và Bhutan, đến biên giới Tây Tạng và Ấn Độ thì đổi hướng và đổi tên thành Brahmaputra (dài 2,900 km) chảy qua lãnh thổ Ấn Độ và tới biên giới Ấn Độ-Bangladesh thì đổi hướng thêm lần nữa chảy dọc qua lãnh thổ Bangladesh từ Bắc tới Nam để đổ ra vịnh Bengal.

Phía Nam: Sông Karnali (chảy từ miệng chim Công) dài 1,080 km chảy Từ Tây Tạng qua Nepal và vào Ấn Độ để cuối cùng nhập vào sông Hằng (Ganges).

Phía Tây: Sông Sutlej (chảy từ miệng Voi) dài 1550 km chảy qua Ấn Độ, Pakistan rồi nhập vào sông Indus.

Nếu để ý ta sẽ thấy khác với ba con sông còn lại sớm rời Tây Tạng để chảy qua Ấn Độ hoặc Nepal thì dòng Yarlung Tsangpo chảy dài trên lãnh thổ Tây Tạng bám dọc theo suốt đường biên giới giữa Tây Tạng với Nepal và Bhutan. Yarlung Tsangpo chính là con sông cao nhất thế giới, chảy ở cao độ trung bình trên 4,000m so với mực nước biển.

Chính vì vậy nếu đi máy bay, chúng ta có thể không nhận ra đâu là Everest nhưng không thể nào không nhận ra Kailash được. Chỉ cần một trong 3 dấu hiệu: Kailash, Hai Hồ Lớn hoặc Bốn con sông thì đương nhiên nhận ra khu vực này.

Các con sông vĩ đại khác chảy từ cao Nguyên Tây Tạng

Theo hầu hết các tài liệu thì khu vực Kailash là nguồn của 4 con sông trên nhưng khi nhìn vào bản đồ này ta không chỉ thấy bốn mà còn thấy thêm sông Ganges (sông Hằng, dài 2,525 km). Sông Karnali và Ganges sau này hợp vào sông Ganges. Nếu nhìn từ trên cao hẳn ta có thể coi là có 5 con sông bắt nguồn từ Kailash. Tuy nhiên, trong thực tế, nguồn của Sông Hằng khá xa hơn chứ không xuất phát ngay từ khu trung tâm của Kailash và Hai Hồ Thiêng. Hơn nữa nguồn sông Hằng lại nằm hẳn trong đất Ấn Độ khác với bốn con sông kia nằm trọn trên đất Tây Tạng. Có lẽ vì vậy mà người ta thường chỉ đề cập đến bốn con sông. Bản đồ cũng chỉ rõ thêm 5 con sông lớn khác Châu Á cũng đều xuất phát từ cao nguyên Tây Tạng. Tính từ phía đông xuống phía Nam gồm:

1. Sông Hoàng Hà (Yellow River) dài 5,464 km đứng thứ 2 Châu Á và thứ 4 thế giới;
2. Sông Dương Tử hay Trường Giang (Yangtse River) dài 6,385 km, nhất Châu Á và thứ 3 thế giới;
3. Sông Mê Kông dài 4,350 km, thứ 3 châu Á và thứ 10 thế giới; 
4. Sông Salween dài 2,815 km chảy qua Myanmar và Thái Lan;
5. Sông Irrawaddy dài 2,170 km chảy qua Myanmar.


http://www.phuot.vn/threads/38303-Kathmandu-to-Kailash-K%C3%BD-s%E1%BB%B1-xuy%C3%AAn-Hy-M%C3%A3-L%E1%BA%A1p-S%C6%A1n