Thích Nhất Hạnh
Trong giới thứ tư của năm giới, chúng ta học: ‘‘Biết rằng lời nói
có thể đem lại khổ đau hay là hạnh phúc cho nên tôi thực tập chánh ngữ để có thể
làm vơi bớt khổ đau và mang lại hạnh phúc cho người.’’ Và một điều thực tập cần thiết là hạnh lắng nghe.
Cái nói liên hệ tới cái nghe. Nói
mà không biết nghe tức là chưa có chánh ngữ. Muốn cho lời nói của ta là
chánh ngữ thì ta phải lắng nghe người khác.
Cho nên tập lắng nghe là một phần của sự thực tập chánh ngữ. Điều
này là một ý kiến mới bổ túc cho giới thứ tư. Từ nay nói về chánh ngữ ta phải nói cả về chánh thính (right
listening).
Trong kinh ta vẫn đọc: ‘‘Chúng con xin học hạnh lắng nghe’’, tức là
hạnh của bồ tát Quán Thế Âm. Nếu không nghe, thì ta sẽ không hiểu và chánh ngữ
sẽ không vững vàng. Trong Kinh có danh từ đế thính: Nhữ đẳng tỳ kheo đương đế
thính, này các tỳ kheo, các thầy lắng nghe tôi nói đây. Đế thính là lắng nghe cho kỹ. Chữ đế này giống như trong tứ đế. Đế
thính là nghe với tất cả tấm lòng của mình, nghe với một tâm hồn lắng dịu,
không sôi động, không thành kiến. Đế thính là một nghệ thuật; nếu tâm hồn còn
xao động, còn đầy dẫy tư duy và thành kiến, nếu chỉ dùng trí năng (intellect) của
mình để nghe, đó chưa phải là đế thính.
Có một Kinh về Bát chánh đạo, thay vì dùng từ chánh ngữ đã dùng từ
đế ngữ và chánh định thì gọi là đế định. Đế thính cần cho đế ngữ. Vậy khi nghe,
ta đừng nghe với thành kiến. Ta phải
nghe bằng cả trái tim của mình. Phải nghe bằng cái tâm trống không, nghe như vậy
mới có thể hiểu được.
Nghệ thuật nghe là không phải chỉ nghe bằng tai. Mắt theo dõi người
nói, nét mặt tự nhiên biến đổi theo những lời phát biểu, ta nghe bằng toàn thể
thân tâm ta. Nhiều khi chỉ cần lắng nghe thôi ta đã giúp cho người bớt khổ rồi.
Có những lúc ta chỉ nghe bằng tai, còn tâm ta không nghe, trong tâm
ta vẫn đang nói. Tuy không nói thành lời, nhưng ở trong lòng ta tầm và từ đầy ắp,
không còn chỗ để ta nghe nữa. Nghe một câu, trong lòng ta có phản ứng. Tuy
không nói ra nhưng trong tâm ta đã bắt đầu phê bình, lên án, bắt bẻ, v.v.. Như
vậy không phải là đế thính.
Nghe lời dạy của Bụt ta phải đế thính, mà nghe lời của những người
khổ đau ta cũng phải đế thính. Nghe lời của bạn hay của thù cũng phải đế thính.
Trong tâm lý học Tây phương có phương pháp nghe gọi là emphatic listening, tức
là vừa nghe vừa đồng nhất mình với người nói, không lên Đn, không chê bai,
không có thành kiến. Emphatic listening, dịch tiếng Việt là nghe thẩm thấu,
nghe và để lời nói thấm vào. Khi lắng nghe những người khổ đau, như bác sĩ tâm
lý trị liệu, thì ta phải nghe với tất cả tâm hồn.
Lắng nghe như vậy người nói cảm thấy rằng họ có thể nói sự thật và
họ sẽ nói sự thật. Muốn nghe như vậy trong lòng phải đạt một trình độ tĩnh lặng,
một mức độ từ bi. Người bác sĩ tâm lý trị liệu phải có từ bi và tĩnh lặng, phải
có tuệ giác ở trong lòng thì phẩm chất của sự trị liệu mới cao. Cho nên người
bác sĩ tâm lý trị liệu nào cũng phải thực tập chánh kiến, phải thực tập đế
thính, phải thực tập từ bi. Khi ta nghe mà mắt ta biểu lộ hiểu biết và thương
yêu thì người nói mới có can đảm nói những điều họ chưa bao giờ nói. Chỉ ngồi nghe không thôi đã làm sứ giả của
Như Lai rồi.
Ở Làng Hồng đại chúng có Hiệp Ước Sống Chung An Lạc, một phương
pháp rất mầu nhiệm. Thực tập Hiệp Ước Sống Chung An Lạc phải quán chiếu, nhìn
sâu sắc vào chính ta và vào người khác, đó là phép thực tập căn bản. Không phải
cứ họp nhau, nói qua nói lại là có thể giải quyết các vấn đề. Cần thực tập
chánh ngữ, căn cứ trên sự thực tập chánh kiến và chánh tư duy. Có chánh kiến và
chánh tư duy thì tự nhiên có tình thương.
Khi tất cả mọi người đều đã nắm được nghệ thuật đế thính và chánh
ngữ, những lời nói ra đều mang chất liệu của sự hiểu biết, của lòng tha thứ và
thương yêu. Danh từ đế thính (sravana) ta đọc thấy trong Kinh Trường A Hàm,
cũng có thể tìm thấy ở Thắng Thiên Vương Bát Nhã Kinh. Sau này mỗi khi nói đến
chánh ngữ thì chúng ta phải nói tới đế thính, tại vì nghe là một phần quan trọng
của nói. Nếu không biết nghe thì ta sẽ không biết nói.
Một vài điều ta cần nói thêm để kết luận về phần thế gian, tức là
phần tục đế, của chánh ngữ. Chúng ta biết, cũng như khi thực tập chánh tư duy,
muốn thực tập chánh ngữ ta phải liên hệ với sự thực tập quán chiếu về tưởng
(perception). Thực tập Chánh ngữ, ta phải thấy sự liên hệ với chánh niệm hoặc
thất niệm. Nếu sống trong thất niệm mãi thì chúng ta không có hy vọng tiến bộ
trên con đường thực tập chánh ngữ. Nói phải biết rằng mình đang nói gì. Trước
khi nói ta biết ta sẽ nói gì, chứ đừng có để lời nói chạy ra trước rồi mình chạy
theo sau. Tu tập chánh niệm giúp ta nắm được thân, tâm và ngôn ngữ của ta.
Thực tập chánh ngữ phải quan tâm đến tập khí. Ta có những tập khí,
những thói quen, cho nên đôi khi lời nói ta chỉ là phản ứng rất máy móc. Nghe một
điều, ta tự nhiên có những phản ứng tự động và bật nói ra. Đó là do tập khí.
Chúng ta phải nhận diện các tập khí, mỉm cười mỗi khi chúng xuất hiện, và nói:
‘‘tập khí ơi, chào mi!’’
Rồi thực tập chánh ngữ, tình thương và bồ đề tâm. Cần quán chiếu, cần
thấy nỗi khổ của người, cần thấy hạt giống của niềm vui nơi người, nhờ đó ta có
thể tạo hạnh phúc cho những người xung quanh ta. Ta có thể ban.
http://www.thuvien-thichnhathanh.org/index.php/component/content/article/436-ttcb-08-ai-ng?start=4