Gần
đây, một công ty tại Mỹ vừa thông báo đã thành công trong việc tạo phôi người
nhân bản đầu tiên (human cloning). Với thành công này người ta hy vọng đi một
bước dài trong việc tạo các tế bào gốc của con người. Công ty nọ cho hay, họ chỉ
muốn sử dụng thành tựu này để chữa bệnh chứ không nhằm mục đích tạo nên một con
người được nhân bản. Sau khi tin này được thông báo, một loạt thành tựu tương tự
cũng được công bố, chủ yếu cũng nhắm đến việc chữa bệnh cho con người.
Dù thế,
mọi nơi trên thế giới đều lên tiếng phản đối, cho rằng việc tạo phôi người nhân
bản là đi ngược lại “các nguyên tắc đạo đức”, dù chỉ sử dụng nó vì những lý do
nhân đạo. Người ta tin rằng, không sớm thì muộn, con người nhân bản thông qua kỹ
thuật sinh sản vô tính sẽ hình thành.
Trong
lịch sử khoa học, hầu như chưa có một bước đột phá nào gây nhiều phản ứng và
tranh cãi như sự việc này. Nhiều người nghĩ ngay đến một viễn cảnh “rùng rợn”,
trong đó con người được chế tạo như những món hàng giống hệt nhau chạy ra từ một
băng chuyền công nghiệp. Ngược lại cũng có nhiều người vội nghĩ tới tự nhân bản
chính mình để sống đời này qua kiếp khác. Có kẻ thành tâm nghĩ tới khả năng sao
chép những thiên tài của loài người để họ tiếp tục phục vụ cho nhân loại hàng
trăm năm sau đó. Cũng có người chủ trương nhân bản con người chỉ để có một
“kho” lưu chứa phụ tùng thay thế tim óc và các bộ phận, một khi chúng bị tai nạn
hay bệnh tật hủy phá.
Tất cả
những điều kể trên không còn là chuyện khoa học giả tưởng trong thế kỷ 21 của
chúng ta. Những điều đó có lẽ sẽ dần dần được thực hiện, chính thức hay không
chính thức. Lý do giản đơn là lĩnh vực sinh học này quá hấp dẫn, kích thích đầu
óc con người vốn say mê nghiên cứu những điều mới mẻ. Ngoài ra nó sẽ mang nguồn
lợi tài chánh vô tận cho những kẻ đi tiên phong và đây sẽ là động lực chủ chốt.
Ngành
sinh học của thế kỷ 21 đang đứng trước một quá trình phát triển kỳ diệu. Trong
thế kỷ 20, ngành vật lý cũng có một giai đoạn tương tự. Với sự phát hiện của
thuyết tương đối trong những năm đầu và thuyết lượng tử trong khoảng những năm
30, thế kỷ 20 đã làm một cuộc cách mạng trong ngành vật lý, đã thống nhất nhiều
khái niệm tưởng chừng như độc lập với nhau, để đưa vật lý của thế kỷ thứ 19 từ
một mức độ “trung bình” của con người đến mức bao quát, gồm chứa cả những thế giới
cực nhỏ của các hạt cơ bản đến những phạm vi cực đại của các thiên hà.
Quan
trọng nhất là nền vật lý hiện đại đã đưa thẳng con người đi đến cửa ngõ của triết
học, trong đó nhiều nhà vật lý khẳng định thế giới vật chất dường như không phải
là một đối tượng “độc lập tự nó” mà là sự cảm nhận của con người về một thực tại
khác. Thế giới vật chất chỉ là dạng xuất hiện của thực tại đó trong ý thức quán
chiếu của con người. Vì lẽ đó, sự phát triển của ngành vật lý trong thế kỷ 21 sẽ
mang nhiều tính chất “tâm linh” mà sự đồng qui của nó với triết học phương
Đông, nhất là với Phật giáo, đã được nhiều người thừa nhận[1]
Khi
những đối tượng nghiên cứu thuộc phạm vi “vô sinh” như vật chất mà đã dẫn đến
những vấn đề thuộc về vai trò của “ý thức” thì ta có thể dễ dàng nhận thấy
ngành sinh học còn đặt những câu hỏi thiết thân hơn nữa với triết học. Sự sống
do đâu mà có, con người từ đâu sinh ra và sẽ đi về đâu…đó là những câu hỏi xưa
nay của nhân loại trong triết học và ngày nay bỗng nhiên trở thành then chốt
trong sinh học. Sự khám phá ra bộ gen người (Genom) hứa hẹn một điều rất thú vị.
Với
Genom, người ta nghĩ rằng đã tìm ra được tất cả những chữ cái và sẽ đọc được cuốn
sách về sự sống, được viết nên bằng những chữ cái đó. Nhiều người vội cho rằng
Genom là nguồn gốc của sự sống cũng như các hạt cơ bản là nguồn gốc của mọi vật
chất trong ngành vật lý của thế kỷ trước. Thế nhưng nếu trong ngành vật lý đã
có một sự bừng tỉnh lớn lao rằng, hạt cơ bản xem ra cũng chỉ là dạng xuất hiện
của một thực tại khác, chúng xuất hiện tùy theo cách quan sát của con người,
thì trong ngành sinh vật người ta chưa biết Genom là nguồn gốc của mọi sự sống
hay bản thân Genom cũng chỉ là dấu vết của một thực tại khác. Thế kỷ 21 có lẽ sẽ
trả lời câu hỏi đó và nhiều nền triết học phương Đông có thể có những giải đáp
quan trọng.
Một hệ
quả của sự thành tựu trong ngành sinh vật hiện nay là khả năng nhân bản của con
người bằng cách sử dụng gen người, cho nó tự phân chia, không cần đến sự thụ
tinh thông thường. Đó là lý do mà sự sinh sản đó được mệnh danh là “vô tính”. Mặc
dù hiện nay người ta chỉ nhân bản các động vật như bò, Cừu nhưng khả năng nhân
bản con người là hầu như chắc chắn trong tương lai không xa. Câu hỏi đầu tiên
và then chốt được đặt ra là, con người được nhân bản đó là “ai”, nó là một hay
khác với con người “bản chính”. Người ta phải đối xử thế nào, nếu một ngày nọ
có một Hitler đi dạo trên đường phố Paris?
Không
phải chỉ hình ảnh Hitler mới làm ta thấy “rùng rợn” mà chỉ hình dung về một con
người bình thường thứ hai giống như bản chính như hai giọt nước đủ gây hãi hùng
trong chúng ta. Tôn Hành Giả thổi sợi lông biến thành hàng ngàn con khỉ khác chỉ
gây thú vị trong Tây Du Ký của Ngô Thừa An nhưng tốt hơn nó nên dừng tại đó. Vì
lẽ đó mà nhiều nơi trên thế giới đều chống lại chuyện nhân bản con người.
Thế
nhưng ngoài sự sợ hãi chung chung, có hai loại tư tưởng chính trong việc phản đối.
Một là, tư tưởng thần học cho rằng chỉ có Thượng Đế hay Chúa mới làm chủ được sự
sống, con người không được phép giành lấy quyền sáng tạo sự sống của
Chúa. Hai là, tư tưởng duy vật cho rằng, con người nhân bản là một, là đồng nhất
với con người bản chính, vì tâm thức là sản phẩm của cơ thể.
Có kẻ
trong giới đó cho rằng cơ thể “tiết” ra tâm thức cũng như não tiết ra tư tưởng,
như gan tiết ra mật. Vì thế tâm thức con người bản sao sẽ là một với con người
bản chính. Đáng sợ thay! Vì thế mà nếu có nhân bản thì không ai sáng tạo Hitler
cho mang họa mà người ta sẽ tạo ra một Einstein để mọi người được nhờ. Cũng vì
nghĩ thế mà nhiều người muốn nhân bản chính mình vì “mình” sẽ được sống ngàn
năm.
Con
người nhân bản là “ai”? Đó là một câu hỏi không đơn giản. Người viết bài này tự
tìm cách trả lời bằng cách lục lại kinh sách của thánh nhân và biết trước rằng
vấn đề này có lẽ sẽ không bao giờ có một lời giải chung quyết.
“Này
A Nan, ta đã nói, có Thức mới có Danh Sắc. Nói như thế tức là: nếu Thức không lọt
vào lòng mẹ, thì trong bụng người mẹ đó có Danh Sắc sinh ra chăng?”
“Bạch
Thế Tôn, không” (Trường Bộ Kinh, 15).
“Danh
Sắc” là từ chỉ chung là hai yếu tố tâm lý và vật lý mà nếu nói chi tiết chính
là ngũ uẩn. Danh Sắc là yếu tố thứ tư trong mười hai nhân duyên và do yếu tố thứ
ba, Thức, sinh ra. Không có Thức thì không có Danh Sắc. Một bào thai muốn thành
hình thì phải cần “tinh cha huyết mẹ” làm cơ sở vật chất và một Thức sẵn sàng
tham dự vào đời sống tương lai.
“Cha
mẹ giao hợp với nhau và người mẹ đã đến thời, nhưng nếu không có một thức sẵn
sàng gia nhập thì không có thai nhi” (Trung Bộ Kinh, 38).
Như
thế tinh cha huyết mẹ chỉ là cái khung vật chất để Thức có thể nương tựa. Còn
Thức nào sẽ “tham dự” vào đó và tại sao nó tham dự là một vấn đề nằm ngoài khả
năng suy luận của người bình thường. Thế thì thai nhi là “ai”? Ta có thể hiểu một
cách sơ sài Thức đó là một nguồn năng lực có tính cá thể và có đủ “nhân duyên”
với cha mẹ để “đợi” thời điểm đó mà tham gia vào và trở thành thai nhi. Điều
quan trọng nhất có lẽ là giữa nghiệp lực của cha mẹ và của Thức phải có một mối
quan hệ rất sâu xa vì Thức sẽ lấy máu mủ của cha mẹ làm cơ thể của mình và lớn
lên trong môi trường sống do cha mẹ tạo ra.
Vì lẽ
đó mà trong quan điểm của đạo Phật, việc sinh con đẻ cái là một quá trình kỳ diệu
của nghiệp lực. Đó không hề là một chuyện tầm thường, càng không phải là một điều
tình cờ, kết quả vô ý thức của hành động tính dục. Thai nhi không phải do cha mẹ
sinh ra mà thông qua cha mẹ để đến với thế giới con người. Thai nhi không phải
là một tờ giấy trắng để cha mẹ có thể vẽ lên đó những gì mình muốn mà nó đã
mang kinh nghiệm và năng lực của một quá khứ vô thủy. Vì thế con cái có thể
“già giặn” hơn cha mẹ rất nhiều. Nó cần tinh huyết và sự nuôi dưỡng của cha mẹ
vì giữa ba con người đó có một mối liên hệ về nghiệp mà thường cả ba đều không
biết và chỉ có thánh nhân như Phật mới thấy rõ.
Trong
kinh sách đạo Phật, nhất là trong “Tử thư Tây Tạng”[2], ta còn tìm thấy những
mô tả cảnh tượng lúc Thức bị nghiệp lực lôi kéo vào bụng mẹ và những gì mà nó cảm
nhận trong lúc Thức gia nhập vào thân thể thai nhi. Thế nhưng những điều này
không phải là đối tượng của bài này. Điều cần xác nhận nơi đây là, một thai nhi
chỉ thành hình khi có Thức gia nhập và máu huyết của cha mẹ chỉ là phần sắc thể
của sinh vật.
Xuất
phát từ điều đó, ta hãy thử xét điều gì xảy ra khi phôi người nhân bản hình
thành và nếu tế bào tí hon đó phát triển thành người thật thì nó có quan hệ thế
nào với con người bản chính. Như đã nói ở trên, sự hình thành thai nhi trong điều
kiện bình thường vốn đã hết sức kỳ diệu và cơ chế đích thực của nó nằm ngoài khả
năng tư duy của chúng ta. Vì thế dùng tư duy để tìm hiểu quá trình của sự nhân
bản con người – một vấn đề hoàn toàn mới mà kinh sách chưa hề đề cập đến – lại
càng là một điều bất khả. Bài này chỉ có chút hy vọng tìm hiểu vài khía cạnh
thuộc về phạm vi suy luận của câu hỏi lớn này.
Trước
hết có lẽ cần quan niệm rằng, động tác của nhà sinh vật khi đưa gen người vào một
trứng có thể được xem là hành động “tạo cơ sở vật chất” cho một sinh vật.
Dù
đây là thành tựu to lớn của ngành sinh vật nhưng về ý nghĩa thì đây “chỉ” là
hành động thay tinh cha huyết mẹ của thai nhi thông thường bằng một gen người
có sẵn. Thế nhưng, muốn nó trở thành sinh vật – dù đó là thú vật, phôi người để
trở thành các tế bào chuyên môn hay thậm chí thành một con người bản sao – thì
ngoài các điều kiện môi trường của phòng thí nghiệm, nhất thiết phải có một Thức
“chịu” tham gia.
Nếu
dùng từ “nhân duyên” để soi sáng thì “duyên” là các điều kiện và khả năng kỹ
thuật của nhà sinh vật, còn “nhân” chính là một Thức sẵn sàng gia nhập. Nơi đây
khả năng lý luận của chúng ta đã bị chận đứng vì không ai biết rõ Thức tái sinh
nơi đây là gì, nhưng xem ra không phải dễ tìm được một Thức như thế vì chỉ sáng
tạo con cừu Dolly thôi mà người ta phải thử gần 300 lần nhân bản. Người ta cho
rằng xác suất để thành hình một con người nhân bản sẽ khó hơn gấp bội lần, thai
nhi sẽ sớm chết trong bụng mẹ.
Từ một
góc nhìn khác, kinh sách đạo Phật cho ta biết rằng, nghiệp lực của Thức tái
sinh sẽ “lựa chọn” cha mẹ và hoàn cảnh sống, từ đó mà chịu hay không chịu tham
gia vào một “cơ sở vật chất” – tức là tinh cha huyết mẹ trong trường hợp thông
thường và gen người được cấy vào trứng trong trường hợp nhân bản. Mặt khác, Thức,
tức là năng lực sống mang tính cá thể, vốn tràn đầy trong đại thiên thế giới,
nên ở đâu cũng có sự sống xuất hiện, nơi nào có điều kiện sống là có sinh vật.
Đạo
Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi
trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng
thế, cho đến thú vật và con người, đến các loài khác mà con người không thể
trông thấy. Vì thế mà sinh vật có thiên hình vạn trạng, được sinh ra trong bốn
cách, loài sinh con, loài sinh trứng, loài sinh trong chỗ ẩm ướt và loài hóa
sinh.
Như
thế thì ta không lấy làm lạ nếu có những sinh vật sẽ phát sinh từ phép nhân bản,
dù sinh vật đó là loài thú hay chỉ những tế bào có tính chuyên môn mà con người
hiện đang hy vọng dùng để chữa bệnh. Và nếu ngày nào đó có cả một con người hẳn
hoi sinh ra từ sự nhân bản thì ngoài cái rùng mình sợ hãi ban đầu, ta cần xem
đó là một con người bình thường như chúng ta. Đó là một người mà tinh cha huyết
mẹ đã được thay bằng bộ gen của người bản chính và, đây là điều quan trọng nhất,
đã có một Thức tái sinh tham gia vào sự sáng tạo này, cũng như một Thức đã gia
nhập vào bụng mẹ lúc tượng hình thai nhi. Thế nên, người trả lời được thai nhi
là “ai” thì sẽ trả lời được con người nhân bản là ai. Hai câu hỏi đó chỉ là một
và trong chúng ta xem ra ít có người biết câu giải đáp.
Con
người bản sao sẽ rất giống với con người bản chính vì cùng một bộ gen, nhưng
tâm thức người đó không phải là tâm thức của con người bản chính. Nó cũng có một
quá khứ xa xôi riêng biệt của nó với tất cả những năng lực và kinh nghiệm mang
theo. Thế nhưng giữa nó và con người bản chính hẳn phải có một nghiệp lực vô
cùng kỳ lạ vì nó sẽ giống với người đó một cách khủng khiếp, giống hơn hẳn hai
trẻ sinh đôi cùng một trứng. Giữa hai con người, nơi đây ta tạm gọi là bản sao
và bản chính, phải có một mối liên hệ về nghiệp mà tư duy chúng ta không bao giờ
tiếp cận nổi.
Khác
với quan niệm thần học, đạo Phật không thấy có một ai nắm quyền làm chủ sự sống
mà sự sống là khả năng nội tại nằm trong mỗi sinh vật. Khác với quan niệm duy vật,
đạo Phật thấy Thức tái sinh là năng lực chủ động tạo tác thân người và cơ thể
chỉ là phương tiện cho tâm thức nương tựa và thực hiện trách nhiệm của mình,
cho dù nó thực hiện một cách có ý thức hay vô ý thức. “Tâm dẫn đầu các
pháp”[3], dù “pháp” ở đây là một thai nhi hình thành trong tình trạng bình thường
hay thông qua một thủ thuật của con người.
Đến
đây độc giả sẽ có người sốt ruột hỏi, thế thì đạo Phật cho phép hay không cho
phép thi hành phương pháp nhân bản. Bài này không dám có tham vọng trả lời một
câu hỏi đạo đức như thế, nó chỉ muốn nêu lên vài khía cạnh hẳn còn sơ sài của vấn
đề. Thế nhưng thông qua những suy nghĩ trên đây, một yếu tố khác hiện ra rõ
nét. Đó là việc sinh con đẻ cái trong tình trạng bình thường không hề là một
chuyện tầm thường. Đó là sự hiện hành của một mối nghiệp lực sâu xa, là sự sáng
tạo một sinh vật với thể chất và tâm thức, một bên là của cha mẹ, một bên là của
sinh vật mới, hòa quyện với nhau trong một thể Danh Sắc thiêng liêng không gì
sánh được.
Nếu
con người biết kính sợ trước tác động huyền diệu của nghiệp lực, biết cẩn trọng
với một thai nhi được tạo hình trong điều kiện bình thường thì con người được
quyền bắt tay làm những thủ thuật để sinh vật mới mẻ ra đời. Nếu con người chưa
hiểu ngộ những điều đó, chưa vươn tới mức đạo lý đó, chưa biết quí trọng sự sống,
dù của sinh vật bé nhỏ nhất, thì tốt hơn hãy thối lui, hãy học lại những bài học
vỡ lòng về đạo đức.
(Nguồn: Khuông Việt số 3)
[1] Xem thêm “The Tao of physics“ của Fritjof Capra,
[2]The Tibetan book of the Dead (Bardo-Thodol) của Evans-Wentz
[3]Lời trong kinh Pháp Cú
http://chuyenphapluan.com/details.asp?filename=pgxhoi/56sinhsanvotinh.htm