Chúng ta sợ chết,
sợ chia lìa và chúng ta sợ trở thành hư vô. Người tây phương rất sợ trở thành
hư vô. Khi họ nghe nói về sự trống rỗng họ cũng rất sợ. Nhưng trống rỗng chỉ là
sự vắng mặt các ý niệm. Không hay trống rỗng không có nghĩa trái ngược với sự
sinh tồn. Nó không có nghĩa là hư vô, không có nghĩa là không còn gì hết. Cần
phải loại bỏ ý niệm hiện hữu và không hiện hữu. Trống rỗng là một dụng cụ giúp
chúng ta.
Thực tại không
liên quan gì tới chuyện có hay không, hiện hữu hay không hiện hữu. Khi
Shakespeare nói “To be or not to be - that is the question (vấn đề là hiện hữu
hay không hiện hữu), Bụt trả lời: “Hiện hữu hay không hiện hữu, đó không phải
là vấn đề.” Có hiện hữu hay không hiện hữu chỉ là hai ý niệm trái ngược nhau,
chúng không phải là chân lý và chúng cũng không diễn tả được chân lý.
Sự giác ngộ tỉnh
thức không những loại được ý niệm về thường hằng mà nó cũng loại được cả ý niệm
về vô thường. Ý niệm về trống rỗng cũng thế. Trống rỗng cũng chỉ là một
khí cụ, và nếu bạn bị kẹt vào ý niệm đó, bạn cũng đi lạc đường. Bụt nói trong
kinh Người bắt rắn (Ratnakuta): “Nếu bạn bị kẹt vào ý niệm hiện hữu hay không
hiện hữu (Có hay Không) thì ý niệm về trống rỗng giúp cho bạn được tự do.
Nhưng khi bạn kẹt vào ý niệm trống rỗng thì không còn hy vọng. Giáo lý về sự trống
rỗng là một dụng cụ giúp cho bạn có cái hiểu thật sự về Không, nhưng nếu bạn
coi dụng cụ đó là sự giác ngộ thì bạn đã bị kẹt vào ý niệm đó rồi.
Nếu bạn có một
ý niệm về Niết bàn, thì nên loại bỏ nó đi. Niết bàn không chứa đựng một ý
niệm nào hết, kể cả ý niệm về Niết bàn. Nếu bạn kẹt vào ý niệm về Niết bàn là bạn
chưa chạm được tới Niết bàn. Sự khám phá và hiểu biết sâu xa đó khiến cho
Bụt vượt thoát được mọi sợ hãi, lo âu, mọi đau khổ và vượt được cả vấn đề sinh
tử.
Đốt
cháy các ý niệm
Khi bạn có một
que diêm, bạn có nhân duyên để tạo ra lửa. Nếu ngọn lửa bạn đốt lên bằng que
diêm đó có đủ thời gian, nó sẽ đốt cháy luôn que diêm. Que diêm tạo ra lửa, và
lửa đốt cháy diêm, giáo pháp vô thường cũng vậy. Nó giúp ta có tỉnh thức về sự
vô thường, và sự giác ngộ đó lại đốt cháy ý niệm của ta về vô thường.
Chúng ta phải
vượt qua ý niệm về thường, nhưng ta cũng phải vượt qua ý niệm về vô thường. Như
thế chúng ta có thể chạm tới Niết bàn. Vô ngã cũng vậy. Vô ngã giống như que
diêm, nó giúp gây ra lửa trí tuệ để hiểu về vô ngã và cũng chính ngọn lửa vô
ngã sẽ đốt que diêm vô ngã.
Tu tập không
phải là thu thập một lô các ý niệm về vô ngã, vô thường, Niết bàn hay ý niệm
nào khác. Đó là công việc của một cái máy thu băng. Thuyết giảng và chia sẻ về
các ý niệm đó không phải là cách học và hành trì Phật pháp. Ta có thể tới đại học
để học Phật pháp, nhưng chúng ta sẽ chỉ học được lý thuyết và các khái niệm.
Chúng ta muốn vượt lên trên các ý niệm để có được tánh giác, và nhờ đó sẽ đốt
cháy được hết các ý niệm trong ta, để cho ta được tự do.
Niết
bàn ở đâu?
Hãy nhìn một đồng
xu. Một bên là mặt phải, một bên mặt trái. Hai mặt không thể hiện hữu nếu thiếu
mất một bên. Kim loại làm ra đồng xu gồm có hai mặt, không có kim loại thì
không có đồng tiền. Ba yếu tố kim loại, mặt phải và mặt trái liên quan với
nhau. Ta có thể mô tả kim loại giống như Niết bàn, mặt phải và mặt trái có thể
coi như biểu hiện của vô ngã và vô thường. Qua mặt phải hay mặt trái, bạn có thể
chạm được và cảm được sự hiện hữu của kim loại. Tương tự như vậy, nếu nhìn sâu
vào bản chất của vô thường và vô ngã, bạn có thể tiếp xúc được với bản chất của
Niết bàn.
Niết bàn trong
bình diện tuyệt đối (bản môn) không thể tách rời ra khỏi Niết bàn trong bình diện
tương đối (tích môn). Khi bạn thật sự chạm được tới Niết bàn tương đối thì bạn
cũng tiếp xúc được với Niết bàn tuyệt đối. Bản thể luôn luôn có sẵn trong bạn.
Đối với người có tu học, điều quan trọng là bạn phải tiếp xúc được với tự tánh
vô thường vô ngã của bạn. Nếu thành công bạn có thể tiếp xúc được với Niết bàn
và không còn sợ hãi nữa. Bây giờ bạn có thể cưỡi trên sóng sinh tử và mỉm cười
thanh thoát.
Tích môn và bản môn
Ngày thường ta
nhìn vào thực tại qua bình diện tương đối hay tích môn, nhưng ta cũng có thể
nhìn các thực tại đó qua bình diện tuyệt đối hay bản môn. Thực tại có thể
biểu hiện ra ở cả hai bình diện tương đối và tuyệt đối. Chúng ta cũng vậy.
Chúng ta đều có những điều cần làm trong bình diện tương đối, nhưng mỗi chúng
ta cũng có những quan tâm trong bình diện tuyệt đối.
Khi chúng ta
tìm Thượng đế hay Niết bàn ở tình trạng an bình sâu xa nhất, là chúng ta đi tìm
tuyệt đối. Chúng ta không chỉ quan tâm tới những chuyện bình thường trong đời sống
như danh vọng, lợi nhuận, địa vị xã hội, các dự án mà chúng ta cũng quan tâm tới
bản chất chân thật trong ta. Thiền quán sâu xa là bắt đầu thực hiện sự quan tâm
tới bình diện tuyệt đối của mình.
Sóng là
nước
Khi bạn nhìn
trên mặt biển, bạn thấy các đợt sóng lên xuống nhấp nhô. Bạn có thể mô tả sóng
này cao, sóng kia thấp, sóng lớn hay nhỏ, sóng mạnh hay yếu và sóng đẹp hay
không đẹp. Bạn có thể mô tả sóng lúc bắt đầu, lúc chấm dứt, sóng được sinh ra
và sóng bị hoại diệt. Giống như trong tích môn hay trong bình diện tương đối,
chúng ta quan tâm tới sinh-diệt, mạnh-yếu, đẹp-xấu, bắt đầu và chấm dứt... của
mọi sự vật.
Nhìn sâu,
chúng ta thấy sóng đồng thời cũng là nước. Một lọn sóng hình như muốn đi tìm bản
thể của nó. Nó có thể đau khổ vì rối ren. Ngọn sóng có thể nói: “tôi không lớn
bằng các ngọn sóng kia,” “tôi bị đàn áp,” “tôi không đẹp bằng các sóng khác,”
”tôi sinh ra đời và tôi sẽ chết đi.” Ngọn sóng có thể đau khổ vì các ý nghĩ đó.
Nhưng nếu sóng uốn mình xuống để tiếp xúc với bản chất của nó thì nó sẽ thấy nó
cũng là nước. Sự sợ hãi và rối ren của sóng sẽ biến mất.
Nước không bị
ràng buộc bởi sự sinh diệt của sóng. Nước được tự do không sợ cao hay thấp, đẹp
hay xấu. Khi nói về các tiếng cao-thấp, đẹp-xấu, đó chỉ là những từ ngữ nói về
sóng. Đối với nước, những từ ngữ đó vô giá trị.
Bản chất thật
sự của chúng ta có tính cách vô sinh bất diệt. Chúng ta không cần phải đi đâu mới
tiếp xúc được bản chất chân thực của mình. Sóng không cần đi tìm nước vì chính
nó là nước. Chúng ta không cần đi tìm Thượng đế hay Niết bàn, hay bản chất tuyệt
đối, vì chúng ta là Niết bàn, là Thượng đế.
Bạn chính là
điều bạn đi tìm. Bạn chính là thứ bạn đang muốn trở thành. Bạn có thể nói với
sóng: “Sóng ơi, con chính là nước rồi, con không cần đi đâu để tìm nước nữa. Bản
chất của con chính là bản chất không phân biệt, không sống chết, không có cũng
không không.”
Hãy thực tập
như sóng. Hãy kiên trì nhìn sâu vào chính mình và nhận biết rằng bản thể của bạn
là vô sinh bất diệt. Bạn sẽ đạt tới tự do và vô úy bằng cách này. Phương pháp
thực tập này giúp chúng ta sống không sợ hãi và chết một cách bình an, không hối
tiếc.
Nếu bạn đang
mang trong mình một nỗi đau lớn, nếu bạn mới mất người thân thương, nếu bạn
đang sống trong sự lo sợ cái chết, trong lãng quên và hủy diệt, xin hãy học
phương pháp này và bắt đầu thực tập. Nếu bạn thực tập giỏi, bạn sẽ có thể nhìn
đám mây, bông hồng, hòn sỏi và em bé bằng con mắt mà Bụt đã mở ra cho bạn. Bạn
sẽ hết sợ hãi, lo âu và phiền não. Bạn sẽ có sự an bình thật sự, sẽ trở nên mạnh
mẽ và vững vàng, có thể mỉm cười với mọi chuyện xảy tới. Sống như thế, bạn có
thể giúp được nhiều người chung quanh bạn.
Bạn ở
đâu trước khi ra đời?
Nhiều người được
hỏi: “Bạn sinh ngày nào?” Nhưng bạn có thể trả lời bằng một câu hỏi hay hơn:
“Trước ngày gọi là sinh nhật của tôi thì tôi ở đâu?”
Nếu bạn hỏi một
đám mây: “Mây sinh ngày nào, trước khi sinh ra, mây ở đâu?” Nếu bạn hỏi nó:
“Mây lên mấy tuổi rồi? Mây sinh ngày nào vậy?” rồi bạn lắng nghe, bạn có thể
nghe được câu trả lời.
Bạn có thể tưởng
tượng mây sinh ra đời cách nào. Trước khi sinh ra, nó là nước trên mặt đại
dương, hay trên mặt sông, rồi nước bốc thành hơi. Mây cũng là mặt trời vì chính
mặt trời làm cho nước bốc thành hơi. Gió cũng có trong mây, vì gió làm cho hơi
nước tụ lại thành đám mây. Mây không tới từ hư không, mây chỉ là sự chuyển hóa
hình thức. Không có chuyện một vật sinh ra từ hư không.
Sớm hay muộn,
mây cũng sẽ biến thành mưa hay tuyết, hay nước đá. Nếu bạn nhìn sâu vào mưa, bạn
sẽ nhìn thấy mây. Mây không mất đi, nó biến hóa thành ra mưa và mưa biến thành
ra cỏ, cỏ vào trong con bò để rồi biến ra sữa và cà-rem bạn ăn đó. Hôm nay khi
ăn một ly cà-rem, bạn hãy để thì giờ nhìn nó và nói: “Chào đám mây, ta nhận ra
ngươi rồi.” Làm như vậy, bạn đã giác ngộ được bản chất thật của cà-rem và của
mây. Bạn cũng có thể nhìn thấy biển, sông, thấy hơi nóng mặt trời, thấy cỏ và
con bò trong ly cà-rem.
Nhìn cho sâu,
bạn sẽ không thấy được ngày sinh thực và ngày chết thực của đám mây. Chỉ có
chuyện đám mây chuyển hóa thành ra mưa hay tuyết. Không có gì thực sự chết đi
vì luôn luôn có sự nối tiếp. Mây là tiếp nối của biển, của sông, của sức nóng mặt
trời và mưa là tiếp nối của mây.
Trước khi sinh
ra, đám mây đã có đó rồi. Hôm nay, khi bạn uống một ly sữa hay một tách trà, ăn
một cái cà-rem, xin hãy theo dõi hơi thở. Hãy nhìn vào ly sữa hay ly trà và gửi
lời chào đám mây.
Bụt dùng nhiều
thời gian để nhìn thật sâu, chúng ta cũng vậy. Bụt không phải là Thượng đế,
Ngài là một con người giống như chúng ta. Ngài đau khổ nên Ngài tu tập, vì vậy
Ngài vượt thoát được khổ đau. Ngài có trí tuệ lớn, có hiểu biết, trí tuệ và từ
bi. Vì thế nên chúng ta nói Ngài là bậc thầy, là huynh trưởng của ta.
Nếu chúng ta sợ
chết là bởi vì chúng ta không hiểu rằng không có gì thực sự mất đi. Người ta
nói Bụt đã chết, nhưng không phải thế. Bụt còn đang sống. Khi nhìn chung quanh,
ta sẽ thấy Bụt dưới nhiều hình thái. Bụt đang ở trong bạn vì bạn có thể nhìn
sâu và thấy được mọi sự đều không thực sự được sinh ra hay mất đi. Chúng tôi có
thể nói bạn là một hình thức mới của Bụt, một tiếp nối của Bụt. Đừng coi thường
chính mình. Hãy nhìn ra chung quanh, bạn sẽ thấy Bụt được tiếp nối ở khắp nơi.
Tôi có
phải là tôi ngày trước?
Tôi có một tấm
hình chụp hồi tôi mười sáu tuổi. Đó có phải là hình tôi chăng? Tôi không tin lắm.
Ai là chú bé trong hình? Đó chính là tôi hay là một ai khác? Hãy nhìn cho kỹ
trước khi trả lời.
Nhiều người
nói rằng đứa bé trong hình và tôi là một. Nếu chú ta là tôi thì sao trông chú
khác quá vậy? Chú bé đó còn sống hay đã chết? Chú ta không giống tôi mà cũng
không khác tôi. Một số nhìn tấm hình, cho rằng chú bé trong đó không còn đây nữa.
Con người ta gồm
có cơ thể (sắc), các cảm xúc (thọ), các nhận thức (tưởng), các loại tâm (hành)
và các hiểu biết (thức). Mọi thứ đó đều đã thay đổi trong tôi kể từ khi chụp tấm
hình đó. Cơ thể chú bé trong hình không còn là cơ thể của tôi ngày nay, một ông
già bảy mươi tuổi. Các cảm thọ khác nhau, nhận thức cũng rất khác. Hầu như tôi
hoàn toàn khác với con người chú bé đó, nhưng nếu chú ta không hiện hữu thì tôi
cũng không có mặt đây được.
Tôi là sự tiếp
nối, cũng như mưa là tiếp nối của đám mây. Khi nhìn vào tấm hình, bạn có thể đã
thấy tôi khi già lão. Bạn không cần phải đợi năm mươi lăm năm. Khi cây chanh nở
hoa, bạn có thể không nhìn thấy trái chanh nào, nhưng nếu nhìn cho sâu, bạn sẽ
thấy trái chanh đã có đó rồi. Bạn chỉ cần một nhân duyên để làm cho chanh hiển
hiện, đó là thời gian. Trái chanh có sẵn trong cây chanh. Nhìn cây chanh bạn chỉ
thấy cành, lá và hoa chanh. Nhưng với thời gian, cây chanh sẽ biểu hiện ra
thành trái chanh.
Hoa hướng
dương tháng tư
Nếu bạn tới nước
Pháp vào tháng tư, bạn sẽ không thấy bông hoa hướng dương nào cả. Nhưng quanh
Làng Mai, vào tháng bảy, hoa hướng dương nở rộ khắp nơi. Những bông hoa đó ở
đâu trong tháng tư? Nếu bạn tới Làng Mai và nhìn cho sâu, bạn sẽ thấy chúng.
Nông phu đã cầy đất và gieo hạt, hoa hướng dương chỉ chờ một điều kiện nữa để
hiển lộ mà thôi. Chúng chờ thời tiết ấm áp của tháng năm và tháng sáu. Hoa hướng
dương đã có đó nhưng chúng chưa biểu hiện đầy đủ.
Nhìn sâu vào một
hộp diêm quẹt. Bạn có thấy lửa trong đó không? Nếu thấy, tức là bạn đã có hiểu
biết. Khi nhìn sâu vào một hộp diêm, chúng ta thấy có lửa trong đó. Nó chỉ cần người
nào cử động vài ngón tay là lửa hiện ra. Chúng ta nói: “Lửa ơi, ta biết mi đang
ở đó. Bây giờ ta sẽ giúp lửa biểu hiện ra.”
Lửa luôn có
trong diêm và trong không khí. Nếu không có dưỡng khí, ngọn lửa cũng không hiện
ra được. Nếu bạn thắp một ngọn nến rồi phủ kín nó bằng một vật gì đó, ngọn lửa
sẽ tắt vì thiếu Oxygen. Ngọn lửa chỉ sống được nhờ có dưỡng khí. Ngọn lửa có mặt
khắp nơi, trong không gian, trong thời gian và trong tâm thức chúng ta. Ngọn lửa
có khắp nơi, chờ biểu hiện ra, và chúng ta là một trong các điều kiện để nó xuất
hiện. Khi ta thổi vào ngọn lửa, hơi thở đó là một nhân duyên làm cho nó ngừng
biểu hiện dưới hình thức ngọn lửa.
Chúng ta có thể
dùng diêm thắp hai ngọn nến rồi thổi ngọn lửa trên que diêm. Bạn có nghĩ lửa
trên que diêm đó đã chết không? Lửa không có tính chất sinh-diệt. Câu hỏi
là: “Ngọn lửa trên hai cây nến kia là một hay là hai thứ lửa?”
- Nó không là
một mà cũng không khác nhau.
Câu hỏi khác
là: “Ngọn lửa của diêm chết hay không chết?”
- Nó chết và
cũng không chết. Bản chất của nó là không chết đi và cũng không sinh ra. Nếu
chúng ta để cho cây nến cháy trong một giờ đồng hồ, thì ngọn lửa đó vẫn thế hay
đã biến thành lửa khác? Tim nến (bấc), chất sáp và dưỡng khí đều đã thay đổi.
Do đó, ngọn lửa cũng đã thay đổi. Vậy thì ngọn lửa không giống và cũng không
khác ngọn lửa trước kia.
“Có”
không trái ngược với “Không”
Chúng ta thường
quan niệm Có là sự trái ngược của Không. Ý niệm đó không còn vững chắc, cũng
như ý niệm về phải-trái. Hãy nhìn một cây bút. Chúng ta có thể cắt hết phần bên
phải của nó không? Nếu chúng ta dùng dao, cắt đi một nửa cây bút, thì chỗ còn lại
vẫn có phần bên phải. Các đảng chính trị thiên tả và hữu khuynh bao giờ cũng hiện
diện, vì cứ có tả thì phải có hữu.
Vậy nên
những người có khuynh hướng chính trị thiên tả (trái), thì nên mong mỏi có sự
hiện diện của phái thiên hữu (phải). Nếu ta diệt phái hữu thì phái tả cũng
không còn. Bụt dạy: “Cái này có vì cái kia có. Thứ này biểu hiện vì thứ kia biểu
hiện.” Đó là bài giảng của Bụt về sự hình thành thế giới. Đó là giáo pháp tương
duyên sinh. Ngọn lửa có đó vì diêm có đó. Nếu không có diêm thì cũng không
có lửa.
Giải
đáp nằm bên trong
Lửa từ đâu tới?
Nguồn gốc nó là gì? Chúng ta nên nhìn sâu vào câu hỏi này. Chúng ta có cần ngồi
thế hoa sen để trả lời câu hỏi này chăng? Tôi chắc chắn rằng bạn đã có sẵn câu
trả lời trong bạn. Chỉ cần chờ thêm một điều kiện nữa là nó hiện ra thôi. Bụt dạy
ai cũng có Phật tính. Phật tính là khả năng giúp chúng ta hiểu và tiếp xúc được
với bản chất của mình. Câu trả lời đã có sẵn trong bạn. Thầy cũng không thể
giúp bạn trả lời. Thầy chỉ giúp bạn tiếp xúc được với Chánh niệm, khả năng tỉnh
thức lớn (trí tuệ) và từ bi trong bạn. Bụt mời bạn đi vào trí tuệ mà bạn đã có
sẵn.
Nhiều người
trong chúng ta hỏi: “Chúng ta đi về đâu sau khi chết? Chuyện gì sẽ xảy ra khi
đó?” Chúng tôi có những thân hữu mất người thân, đã hỏi rằng: “Bây giờ họ ở
đâu? Họ đi tới đâu rồi?” Các triết gia hỏi: “Con người từ đâu tới, vũ trụ và thế
giới này từ đâu sinh ra?”
Khi chúng ta
nhìn cho sâu, ta thấy rằng nếu đầy đủ nhân duyên, thì sự vật sẽ biểu hiện. Sự
biểu hiện đó không tới từ đâu cả. Và khi nó ngừng biểu hiện thì nó cũng không
đi đâu hết.
Sáng tạo
Sáng tạo
ra có nghĩa là từ Không có gì bỗng nhiên ta Co một
thứ gì đó. Tôi thích dùng từ biểu hiện hơn là từ ngữ sáng tạo. Nhìn cho kỹ, ta
sẽ hiểu được chữ sáng tạo cũng có nghĩa là biểu hiện. Cũng như khi ta hiểu được
rằng đám mây là biểu hiện của thứ gì đã có sẵn, và mưa là biểu hiện sau đó của
đám mây; chúng ta sẽ hiểu được rằng con nguời cũng như mọi sự vật quanh ta,
không tới từ nơi nào và cũng chẳng đi tới đâu hết. Biểu hiện không đối nghịch với
hoại diệt. Đó chỉ là sự chuyển hóa. Hiểu rằng đời sống của con người và vũ trụ
chỉ là những biểu hiện, chúng ta sẽ được bình an vô cùng. Nếu bạn đang đau khổ
vì mất một người thân thương, xin hãy tập nhìn sâu để hàn gắn vết thương trong
bạn.
Có những nhà
thần học nói rằng Thượng đế là nền tảng của tạo vật. Nhưng tạo vật nào? Đó
không thể là những gì hiện hữu đối nghịch với những cái không hiện hữu. Nếu có
ý niệm cho hiện hữu là trái ngược với không hiện hữu, thì đó không phải là Thượng
đế. Thượng đế vượt thoát được tất cả mọi ý niệm, kể cả ý niệm sáng tạo ra và hủy
diệt. Nếu bạn nhìn sâu vào ý niệm sáng tạo với trí tuệ, hiểu rõ về sự biểu hiện,
bạn sẽ khám phá được ý nghĩa sâu xa của chữ sáng tạo. Bạn sẽ thấy rằng không có
gì sinh ra, không có gì mất đi, chúng chỉ biểu hiện mà thôi.
Tìm sự
cứu rỗi
Chúng ta tìm tới
các truyền thống tâm linh, tới nhà thờ, đền Do thái giáo hay Hồi giáo, hoặc tới
một trung tâm thiền tập, để tìm các phương pháp giúp ta bớt khổ. Nhưng ta chỉ đạt
được tình trạng thoát khổ khi ta có khả năng tiếp xúc được với bình diện tuyệt
đối mà thôi. Trong đạo Thiên Chúa và Do Thái giáo, người ta gọi bình diện đó là
Thượng đế. Thượng đế là bản tánh chân thật của ta, là bản chất không sinh không
diệt. Vì thế, nếu bạn biết tin cậy vào Thượng đế, tin vào bản chất chân thật của
ta thì ta sẽ không còn sợ hãi lo âu nữa.
Bắt đầu bạn
nên nghĩ tới Thượng đế như một con người, nhưng con nguời có tính cách đối nghịch
với những gì không phải là người. Nếu bạn có các ý niệm và quan điểm về
Thượng đế thì bạn chưa thấy được bản chất của Thượng đế. Ngài vượt lên trên tất
cả các ý niệm của ta. Thượng đế không phải là một con người, mà cũng không phải
là thứ gì phi nhân. Con sóng trong vô minh thường sợ hãi chuyện sống-chết,
cao-thấp, đẹp-xấu hay ghen tuông. Nhưng khi sóng có thể tiếp xúc được với bản
chất thật của nó, thì sóng biết nó cũng là nước. Bao nhiêu lo sợ và giận hờn của
nó sẽ tan biến đi. Nước không có chuyện sống hay chết, không có chuyện cao hay
thấp.
Nhân
duyên
Khi chúng ta
nhìn vào một vật gì như căn nhà hay cái bàn chẳng hạn, chúng ta thường nghĩ căn
nhà hay cái bàn đó là do một hay nhiều người đã làm ra. Ta có khuynh hướng muốn
tìm ra nguyên nhân đã tạo ra căn nhà hay cái bàn. Ta đi tới kết luận là căn nhà
do thợ xây nhà làm nên, cái bàn do người thợ mộc. Ai tạo ra cái bàn? Người thợ
mộc? Ai tạo ra bông hoa? Đất hay người làm vườn, người nông phu?
Chúng ta thường
suy nghĩ một cách giản dị về nguyên nhân của sự vật. Ta thường cho rằng chỉ cần
một nhân duyên là đủ đưa tới sự vật kia. Khi thực tập nhìn sâu, ta thấy ngay là
một nguyên nhân không bao giờ có thể tạo ra kết quả được. Người thợ mộc không
thể là nhân duyên duy nhất tạo ra cái bàn. Nếu ông ta không có những dụng cụ
như đinh, cưa, gỗ, thời gian, không gian, thức ăn, không có cha mẹ sinh ra ông
và bao nhân duyên khác, thì làm sao ông có thể tạo ra cái bàn được? Con số các
nguyên nhân đó nhiều vô kể.
Khi nhìn vào
bông hoa chúng ta cũng thấy như vậy. Người làm vườn chỉ là một nguyên nhân. Phải
có đất, có mặt trời, đám mây, có phân bón, hạt giống và nhiều, nhiều thứ khác.
Khi nhìn sâu, bạn sẽ thấy rằng cả vụ trụ đã cùng giúp cho bông hoa biểu hiện.
Khi nhìn cho kỹ một miếng cà-rốt bạn ăn bữa trưa, bạn cũng thấy tất cả vũ trụ
đã giúp cho miếng cà-rốt có mặt.
Nếu chúng ta
tiếp tục nhìn thật sâu, ta sẽ thấy nguyên nhân của sự vật này đồng thời cũng là
một kết quả của nhiều thứ khác. Người làm vườn là một nhân duyên để có bông
hoa, nhưng chính ông cũng là một hệ quả của nhiều yếu tố. Ông biểu hiện ra được
là nhờ nhiều nguyên nhân như tổ tiên, cha mẹ, thầy giáo, công việc, cộng đồng,
thực phẩm, thuốc men và ngôi nhà ông cư trú. Giống như người thợ mộc, ông không
chỉ là nguyên nhân mà còn là một hệ quả.
Nhìn sâu,
chúng ta thấy không thể có thứ gì chỉ thuần là nguyên nhân. Thực tập nhìn sâu,
chúng ta có thể khám phá được nhiều điều và nếu ta không bị vướng vào một chủ
thuyết hay ý niệm chúng ta sẽ có tự do để khám phá.
Không
có một nguyên nhân thuần túy
Khi Bụt được hỏi
“Cái gì là nguyên nhân của mọi sự vật?” Ngài đã trả lời một cách đơn giản. Ngài
nói:
“Cái này có vì
cái kia có.” Câu này có nghĩa là sự vật nào cũng nhờ tất cả các thứ khác mới biểu
hiện ra được. Một bông hoa phải nhờ các yếu tố không phải là hoa để hiện ra.
Khi nhìn sâu vào bông hoa, bạn có thể thấy được những yếu tố không-hoa. Nhìn
vào hoa, bạn thấy ánh sáng mặt trời, đó là một yếu tố không-hoa. Không có ánh
sáng, hoa không thể biểu hiện. Nhìn hoa bạn cũng thấy đám mây, đó là một yếu tố
không-hoa. Không có mây (và mưa) hoa không biểu hiện được. Các yếu tố căn bản
khác như muối khoáng, đất, người nông phu v.v... rất nhiều các yếu tố không-hoa
đã giúp cho bông hoa biểu hiện.
Đó là lý do vì
sao tôi ưa dùng từ biểu hiện thay vì sáng tạo. Tuy vậy, chúng ta vẫn có thể
dùng từ ngữ sáng tạo, nhưng ta nên hiểu rằng sáng tạo không có nghĩa là từ không
có nguyên nhân nào mà làm thành một sự vật được. Tạo vật không phải là thứ gì bị
hủy hoại hoàn toàn và có thể không còn lại gì hết. Tôi thích từ ngữ “Wonderful
becoming” (sự hình thành mầu nhiệm) - nó gần với chân nghĩa của từ sáng tạo
hơn.
http://langmai.org/