Hiển thị các bài đăng có nhãn phathoc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn phathoc. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 18 tháng 9, 2012

Bốn “bí quyết” giúp thân tâm an lạc

Vào năm 1946, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đưa ra định nghĩa về sức khỏe: “Sức khỏe không chỉ là không bệnh tật mà còn là trạng thái hoàn toàn sảng khoái về thể chất, tinh thần và xã hội”.

Định nghĩa này cho thấy thân và tâm của con người dính liền với nhau như hình với bóng, và có sức khỏe có nghĩa “thân tâm an lạc”. Điều hết sức thú vị là từ rất lâu rồi, con nhà Phật thường chúc mọi người: “Thân tâm thường an lạc”.

Làm sao để có “thân tâm an lạc”? Câu hỏi này cũng được đặt ra từ lâu lắm rồi. Không phải đợi đến bây giờ, thời mà tiến bộ khoa học, trong đó có y học, phát triển như vũ bão và đạt được những thành quả đáng kinh ngạc, mới có những hướng dẫn về bảo vệ sức khỏe đáng tin cậy, mà từ rất lâu đã có những khuyên bảo về tạo ra, duy trì và tăng cường sức khỏe của người xưa rất đáng suy ngẫm.

Trang Tử từ hơn ngàn năm trước, trong Nam Hoa kinh, đã đưa ra lời bàn giúp nuôi dưỡng cuộc sống khỏe mạnh: “Kỳ tẩm bất mộng, kỳ giác vô ưu, kỳ thực bất cam, kỳ tức cam cam”. Nói nôm na, lời bàn ấy có nghĩa: “Ngủ không mộng mị, thức chẳng lo âu, ăn không cầu kỳ, thở thật thâm sâu”.

Ngủ không mộng mị

Giấc ngủ không phải là sự ngưng nghỉ hoạt động hoàn toàn mà là một dạng đặc biệt của hoạt động cơ thể, giúp cơ thể phục hồi năng lượng đã tiêu hao khi thức. Giấc ngủ không mộng mị là giấc ngủ đủ, sâu và là cách phục hồi sinh lực tốt nhất.

Ngủ có đủ thì mới say giấc nồng, và nếu ngủ sâu thì dù có nằm mộng, khi thức dậy chẳng nhớ gì hết. Thời lượng trung bình của giấc ngủ đủ khoảng 8 tiếng nhưng không nhất thiết luôn luôn như vậy (có người ngủ đủ với ít hơn hoặc nhiều hơn so với 8 tiếng). Dấu hiệu cho biết ngủ đủ là có sự sảng khoái, tươi tỉnh, thoải mái khi thức giấc, làm việc bình thường vào ban ngày.

Ngày nay, khoa học đã chứng minh ngủ đủ sẽ có sức khỏe tốt, còn thiếu ngủ sẽ bị đủ thứ bệnh. Ngủ không sâu sẽ bị mộng mị và cơ thể không khỏe dễ bị ác mộng.

Ác mộng được kể là một loại rối loạn giấc ngủ. Rối loạn giấc ngủ có nhiều loại và ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe, đó là mất ngủ, ngủ nhiều, ác mộng, miên hành (mộng du), nói mớ, nghiến răng, hoảng sợ khi ngủ… Riêng mất ngủ là rối loạn thường gặp và làm khổ sở khá nhiều người.

Như vậy, giấc ngủ thật sự rất quan trọng đối với sức khỏe. Và “ngủ không mộng mị” là điều mà cuộc sống mọi người hướng tới và là một phản ánh cho thấy cuộc sống đã đạt phần nào “thân tâm an lạc”.

Thức chẳng lo âu

Trong cuộc sống hiện nay, làm sao từ lúc sáng sớm thức dậy đến lúc tối mịt ngủ vùi mà hoàn toàn không có giây phút lo âu quả là chuyện rất khó. Chính cái gọi là “stress” thường xuyên trĩu nặng trong tâm hồn mà ta cứ cảm thấy lo âu chẳng ít thì nhiều.

Stress là những áp lực về mặt tâm lý và những biến động trong gia đình, trong xã hội tác động lên con người gây mất cân bằng. Đáp ứng của con người bị stress là cảm thấy có “sự căng thẳng, lo âu”.

Ta cần lưu ý, stress không phải luôn luôn là xấu. Với liều lượng vừa phải, chính stress giúp ta có sự hưng phấn, cảnh giác, tập trung cao độ để đối phó lại tình huống không thuận lợi. Ta sẽ có những suy nghĩ tích cực, tìm cách làm chủ thực tế, quyết tâm giải quyết khủng hoảng đó và thường là thành công trong việc vượt qua stress mà chẳng cảm thấy quá lo âu.

Tuy nhiên, nếu stress cứ lặp đi lặp lại và ta không làm chủ được nó, không thích ứng với những biến đổi do nó đưa đến, cơ thể ta sẽ bị rối loạn về mặt thể chất và tâm thần.

Người bị stress thường xuyên thường ăn uống kém, hoạt động thể chất kém và dễ tìm đến rượu, thuốc gây nghiện (có người tìm đến ma túy) dùng làm phương tiện giảm thiểu stress, do đó dễ trở thành người nghiện.

Như vậy, rõ ràng là “thức chẳng lo âu” cũng là điều mà cuộc sống mọi người hướng tới và là một phản ánh cho thấy cuộc sống đã đạt phần nào “thân tâm an lạc”.

Ăn không cầu kỳ

Ăn không cầu kỳ là ăn “đủ” và ăn “lành”. Trước hết là ăn uống sao cho đầy đủ và cân bằng 5 nhóm chất dinh dưỡng (nhóm chất đạm, chất béo, chất đường bột, vitamin và chất khoáng).

Chữ “cân bằng” trong ăn uống rất quan trọng. Ta không nên ăn thừa mứa quá nhiều mà thật vừa đủ chất đạm, chất béo, chất đường bột (nhiều người tán dương không ăn đạm động vật như heo, bò, gia cầm… để cải thiện môi sinh và hạn chế bệnh tật). Nên ăn nhiều rau cải tươi, trái cây, các loại ngũ cốc còn nguyên vì những thứ này rất tốt cho sức khỏe.

Ăn “lành” còn có nghĩa là biết cách ăn uống như: luôn thực hiện “ăn chín, uống sôi”; thức ăn cũ cần nấu chín kỹ trước khi ăn; bảo quản tốt thực phẩm đã chế biến, chống ruồi, gián, bụi bặm xâm nhập; rửa tay bằng xà bông trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh và lao động…

Thở thật thâm sâu

Nhờ hô hấp thở ra hít vào mà cơ thể ta mới được cung cấp đủ dưỡng khí (tức oxy) từ khí trời đưa vào và thải bỏ thán khí (tức CO2) từ trong cơ thể ra ngoài. Nhờ hít thở mà duy trì sự sống.

Hít thở bình thường chỉ dùng một phần hai lá phổi. Còn thở thật thâm sâu là hít thở với gần trọn cả hai lá phổi, với cơ hoành hoạt động tích cực xoa bóp các phủ tạng ở bụng.

Thở thâm sâu không chỉ cho ta nguồn sống nhờ thu thật nhiều khí oxy, thải cho gần hết khí CO2 ở phổi, mà còn tác động giúp thanh lọc tâm ý; thở thật thâm sâu là hít thở với trạng thái tỉnh thức hoàn toàn: “Hít vào, thấy bụng phình ra; thở ra, thấy bụng xẹp lại”. Và với tâm ý thanh tịnh: “Hít vào tâm tĩnh lặng: Thở ra miệng mỉm cười”, và với tâm hân hoan, như Đức Phật trong kinh Niệm xứ và niệm hơi thở đã cho thấy: “Với tâm hân hoan, tôi thở vào; với tâm hân hoan, tôi thở ra”, để như thế mà đi vào Thiền.

Chú tâm hoàn toàn vào các hơi thở vào, thở ra là bước đầu đi vào Thiền. Ngồi thở thiền trước hết là để không phải làm gì hết và để được buông xả.

Khi nắm vững nghệ thuật theo dõi hơi thở và mỉm cười thì càng ngồi thiền càng thấy thích thú. Rồi, nhờ năng lượng của niệm và định, ta sẽ bắt đầu quán chiếu sâu sắc vào thân thể, tâm thức và hoàn cảnh, để đem lại an lạc hạnh phúc cho ta và cho cả thế gian này.

Khi đó: “Ngủ không mộng mị, thức chẳng lo âu, ăn không cầu kỳ, thở thật thâm sâu” sẽ hòa điệu,vận hành trôi chảy trong cuộc sống.

Theo PGS.TS. Nguyễn Hữu Đức - SK&ĐS
http://phathoc.net/tu-hoc/phat-phap-ung-dung/767012_bon_bi_quyet_giup_than_tam_an_lac.aspx

Thứ Hai, 17 tháng 9, 2012

Chân Lý Tương Đối Và Chân Lý Tuyệt Đối

Hoà Thượng Thích Thanh Từ


I. CHÂN LÝ TƯƠNG ĐỐI

Chân lý tương đối là những sự thật còn nằm trong đối đãi đối trị nhau. Những sự đối đãi ấy là: sáng đối tối, lạnh đối nóng, xấu đối tốt, thiện đối ác, khổ đối vui, động đối tịnh, sanh diệt đối vô sanh...Còn sanh hoạt trong tương đối thì, có xấu phải có tốt, có thiện phải có ác, có khổ phải có vui..., chúng ta không thể chối cãi sự thật ấy được. Chỗ khôn ngoan của chúng ta là, khéo lợi dụng cái này đối trị cái khác, để tiến lên đúng nguyện vọng của mình. Như lương y biết bệnh biết thuốc, khéo dùng thuốc trị lành bệnh cho người. Phật pháp là những phương thuốc trị lành bệnh cho chúng sanh, nên gọi Phật là Ông vua thầy thuốc (Vô thượng y vương). Ở đây, chúng ta chỉ đơn cử vài lối đối trị để làm sáng tỏ lẽ này.

Chủ Nhật, 1 tháng 1, 2006

Chúng tôi đã tìm thấy nơi Đức Phật đản sanh


Ghi chú của Á Châu Tuần Báo (Asiaweek):

Nhiều thế kỷ qua, các du khách hành hương đổ xô đến chân núi Hy Mã Lạp Sơn để mong nhìn thấy chính xác nơi đức Phật đã ra đời hàng nghìn năm trước. Nay công việc tìm kiếm này đã kết thúc. Một nhóm chuyên gia khảo cổ quốc tế cho biết họ đã khám phá ra chứng tích cuối cùng xác nhận rằng đức Phật đã giáng sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) trong vùng tây nam vương quốc Nepal. Ký giả ngoại quốc đầu tiên được phái đến khu vực tìm ra thánh tích trên là Thomas Laird. Dưới đây là bài tường thuật của ông ta. 
Trụ đá của Vua A Dục (Ashoka) đặt tại vườn Lumbini,
Nepal, nơi Đức Phật đản sinh (Photo: wikipedia)
Mặc dù trong tình trạng suy tàn, ngôi chùa thờ Hoàng Hậu Ma Gia (Maya Devi) tại Phật tích Lâm Tỳ Ni (Lumbini), cách thủ đô Kathmandu xứ Nepal 240 cây số, là một trong những trung tâm hành hương chính của Phật Giáo. Trải qua hơn 2600 năm, phần đông Phật tử đều tin rằng đây là nơi đản sinh của đức Thế Tôn, vị giáo chủ của Phật Giáo. Nhưng các nhà khảo cổ vẫn chưa biết chính xác được nơi nào trong vườn Lâm Tỳ Ni, thái tử Tất Đạt Đa (đức Phật) đã ra đời. 

Nay các nhà khảo cổ cho biết đã tìm thấy một phiến đá không có vết nứt ở dưới nền của một ngôi chùa cổ xây cất khoảng vào năm 249 trước Tây Lịch. Mẫu đá này có chiều dài 45 phân và chiều ngang 15 phân tây được tìm thấy nằm sâu gần năm thước tây dưới một cái nền lát đá đổ nát của ngôi chùa trên.

Hai nhà khảo cổ Nepal Babu Khrishna Rijal và Nhật Bản Satoru Uesaka đã khám phá ra di tích này ngày 18 tháng 2 năm 1995. Nhưng họ trì hoãn gần một năm mới phổ biến cho công chúng biết. Vì muốn chờ kiểm chứng lại của các nhà khảo cổ ở những nước khác như Ấn Độ, Tích Lan và Hồi Quốc. Ông Rijal và Satoru bảo rằng sau khi xem xét kỹ phiến đá, các chuyên viên khảo cổ ba quốc gia trên đều “hoàn toàn đồng ý” công nhận là đúng. 

Hai nhà khảo cổ Nepal và Nhật cho biết thêm: “Chúng tôi đã dùng đến hoá chất và các kỹ thuật khác để áp dụng trong việc khảo cứu. Chúng tôi vẫn tiếp tục đào bới tại đây, và sau một năm tìm tòi, khảo sát kỹ lưỡng, bây giờ đã đến lúc chúng tôi cần thông báo cho mọi người biết kết quả về những khám phá của chúng tôi”.
Sau khi tin này được loan ra, có một số người tỏ vẽ nghi ngờ. Một tờ báo ấn hành tại Kathmandu (Nepal) phủ nhận sự trình bày về kết quả công việc nghiên cứu của hai nhà khảo cổ nói trên. Ông Satoru giải thích: “Thiên hạ tung ra nhiều tin đồn, nhưng chủ yếu là do lòng ganh ghét. Chúng tôi mong rằng, sau khi đọc kỹ bản báo cáo đầy đủ của chúng tôi, họ sẽ hết nghi ngờ”.

Tìm ra nơi đức Phật đản sinh là một công trình khảo cổ trọng đại đối với khoảng 350 triệu tín đồPhật Giáo trên thế giới cũng như sự khám phá ra thành phố Bethlehem, nơi Chúa Giê-su giáng sinh ngày xưa. Trước khi nhập diệt, đức Thế Tôn dạy rằng Phật tử nào có duyên lành đến chiêm bái vườn Lâm Tỳ Ni, nơi Ngài đã ra đời và ba thánh tích Phật Giáo khác (Bồ Đề Đạo Tràng, Vườn Lộc Uyễn và Câu Thi Na) thì sau khi lâm chung, họ có thể được phước báo “thác sinh lên cõi trời”. Cho nên sự phát hiện, tìm ra chứng tích lịch sử này hy vọng sẽ giúp cho nhiều du khách Nepal muốn đến chiêm bái Phật tích Lâm Tỳ Ni (Lumbini).

Tin tức về sự khám phá trên đầu tiên được loan ra vào ngày 4 tháng 2 năm 1996, chỉ giới hạn cho các ký giả địa phương ở Nepal. Uỷ Ban Phát Triển Lâm Tỳ Ni - một trong ba tiểu ban thực hiện đề án khai quật - cùng với Nha Khảo Cổ của chính phủ Nepal và Hội Đoàn Phật Giáo Nhật Bản, đã thông báo ra ngoại quốc, nhưng chỉ vài thông tín viên biết mà thôi. Trong tuần qua chưa có phản ứng chính thức gì từ các nhà lãnh đạo Phật Giáo tại Ấn Độ, nơi mà một số học giả vẫn thường tuyên bố rằng đức Phật đã không ra đời ở xứ Nepalmà tại quận Gorakhpur thuộc tiểu bang Uttar Pradesh (miền bắc Ấn Độ). Vườn Lâm Tỳ Ni nằm trong lãnh thổ Nepalcách tiểu bang Uttar Pradesh chỉ 10 cây số.

Theo kinh điển Phật Giáo, hoàng hậu Ma Gia, thân mẫu đức Phật, khoảng năm 623 trước Tây Lịch, trênđường trở về thăm quê hương ở nước Câu Ly (Koliya), bà đã ghé vào nghỉ ở vườn Lâm Tỳ Ni. Sau khi xuống tắm ở hồ nước thiêng, hoàng hậuđi 25 bước đến gốc cây Vô Ưu và hạ sinh thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha). Theo truyền thuyết Phật Giáo, vừa mới ra chào đời, thái tử đã bước đi bảy bước.

Gần 400 năm, sau khi vua A Dục (Asoka) lên nắm quyền cai trị toàn cõi Ấn Độ và ngài đã có công truyền bá Phật Giáo đến các quốc gia vùng Đông Á. Sử chép rằng vua A Dục có đến chiêm bái vườn Lâm Tỳ Ni, nơi đức Thế Tôn giáng sinh. Bấy giờ ngài đã ra lịnh cho đặt một viên đá ngay chỗ thái tử Tất Đạt Đa (đức Phật) ra đời và trồng một trụ đá sát bên cạnh. Trên trụ đá này có khắc mấy dòng cổ ngữ Ấn Độ đề cập đến phiến đá nói trên. Về sau, nhiều chùa đã được xây cất tại thánh tích này, nhưng trải qua nhiều thế kỷ đổi thay, Lâm Tỳ Ni đã rơi vào tình trạng đổ nát hoang tàn không còn ai biết tới. Mãi đến năm 1895, trụ đá vua A Dục mới được tìm thấy bởi nhà khảo cổ người Đức. Năm 1967, ông U Thant (Miến Ðiện) tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đến chiêm bái đã khóc khi thấy vườn Lâm Tỳ Ni trong cảnh suy tàn đổ nát.

Công việc khai quật của hai nhà khảo cổ Nepalvà Nhật Bản khởi đầu ba năm trước với 200 nhân công. Họ đã đào thấy cái nền nhà của 15 phòng. Ngay ở giữa họ khám phá, phát hiện một đường mương (trench) bên dưới có một phiến đá mà hai nhà khảo cổ tin rằng có thể nó là tấm đá do vua A Dục của Ấn Độ cho đặt xuống ngày xưa. Các nhân viên khảo cổ xứ Nepal xác nhận rằng từ đường mương này cách xa đúng 25 bước hồ nước thiêng nơi hoàng hậu Ma Gia đã tắm trước khi sanh thái tử Tất Đạt Đa. Ông Lok Darshan Bajracharya, nguyên chủ tịch Uỷ Ban Phát Triển Lâm Tỳ Ni đã phát biểu: “Khám phá này chứng tỏ cho thấy những điều ghi chép trong kinh điển Phật Giáo nói về địa điểm chính xác nơi đức Phật đản sinh xưa kia là đúng”. 

Hai ngày sau khi loan báo tin về kết quả việc khám phá trên, vua Nepal Birendra cùng với hoàng hậu Aishwarya và thủ tướng Sher Bahadur Deuba đã đến viếng thăm khu vực nơi các nhà khảo cổ đã tìm thấy phiến đá lẫn trụ đá A Dục (Asoka pillar). Trước khi đức vua và hoàng hậu Nepal đến chiêm bái, không một nhiếp ảnh gia ngoại quốc nào được phép tiến vào khu vực đang khai quật và toàn vùng này đã được ngăn chặn bao quanh bằng một dải băng vải nhựa màu vàng. 

Tôi chăm chú nhìn vua Nepalđang chất vấn hai chuyên gia khảo cổ Rijal và Satoru về phiến đá nằm bên dưới khung tò vò (arch) được xây bằng loại gạch thuộc thời đại vua A Dục. Họ giải thích đó là một “phiến đá khối kết” (conglomerate stone) không có tại địa phương mà nó được lấy từ nơi khác đến và đặt ngay ở trung tâm của ngôi chùa. Vua Birendra hỏi tiếp phải chăng chính đó là phiến đá mà trên trụ đá vua A Dục có khắc ghi nói đến. Họ đã trả lời chắc chắn là như vậy. Đức vua và hoàng hậu Nepal cùng đoàn tháp tùng tất cả vào chùa làm lễ trước tượng hoàng hậu Ma Gia (Maya Devi) và ra về. 

Sau đó, hai nhà khảo cổ Rijal và Satoru có cho tôi biết rằng ngày mai họ sẽ lên đường sang Ấn Độ để tham dự cuộc hội thảo, thuyết trình về khám phá chứng tích lịch sử quan trọng này. Cả hai ngạc nhiên khi nghe tôi đề nghị rằng họ nên ở lạiKathmandu để tiếp xúc mở cuộc họp báo với các ký giả ngoại quốc. Nhưng hai nhà khảo cổ đã trả lời: “Chúng tôi không thể vắng mặt trong buổi hội thảo nói trên tại Ấn Độ”. Chúng tôi sẽ mở cuộc họp báo tại Kathmandu (Nepal) sau, vì trể một vài ngày cũng không sao. 

Trích tuần báo ASIAWEEK số phát hành ngày 23-02-1996 trang 34 và 35 
Nguyên tác: Ký Giả Thomas Laird | Chuyển ngữ: H.T. Thích Trí Chơn

http://phathoc.net/PrintView.aspx?Language=vi&ID=7AC45B


*   GOOGLE: Bản đồ LUMBINI

*    GOOGLE: HÌNH ẢNH LUMBINI