Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2013

Phép thiền định và các học phái

Phép thiền định và các học phái

Bài 1 : nhà sư Ringou Tulkou Rinpoché

31/10/201306:07(Xem: 328)
phathiendinh

Phép thiền định và các học phái
Hoang Phong chuyển ngữ
Lời giới thiệu của người dịch
Trên bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo - kể cả Phật Giáo dưới một vài hình thức biến dạng mang tính cách đại chúng - đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình. Sự biến cải đó gọi là thiền định.


Một tập san Phật giáo vừa được ra mắt ở Pháp vào tháng 9 năm 2013 và trong số đầu tiên đã đặc biệt nêu lên chủ đề thiền định. Bài mở đầu do một học giả Pháp rất lỗi lạc là Philippe Cornu viết (đã được chuyển ngữ), nêu lên một vài nét chính yếu của phép luyện tập này, và tiếp theo đó là một loạt các bài viết khác xoay quanh cùng chủ đề. Tập san mang tựa là Regard Bouddhiste, có thể tạm dịch là Hướng nhìn Phật Giáo.
Trong số các hướng nhìn khác nhau về thiền định nêu lên trong tập san, chúng tôi xin chọn ra ba bài đại diện cho Phật Giáo Tây Tạng, thiền học Zen và Phật Giáo Theravada. Tất nhiên là nội dung trong các bài báo ngắn không thể so sánh với những gì thật sâu sắc và chi tiết trong kinh sách và các bài khảo cứu, thế nhưng cũng có thể mang lại cho chúng ta một ý niệm nào đó về một phép luyện tập chủ yếu và không thể thiếu sót đối với những người tu hành chân chính. Ba bài này sẽ được lần lượt chuyển ngữ dưới đây:
bài 1: Phỏng vấn nhà sư Ringou Tulkou Rinpoché (Lạt-ma Tây Tạng)
bài 2: Zazen hay tư thế ngồi thiền (Thiền sư Pierre Dôkan Crépon)
bài 3: Như một dòng nước yên lặng đang luân lưu (Tỳ-kheo Khất Sĩ Ajahn Chah)
Regard Bouddhiste
Hình bìa tập san Regard Bouddhiste
(số tháng 9 và 10 / 2013)
Bài 1
Phỏng vấn nhà sư
Ringou Tulkou Rinpoché
Ringou Tulkou Rinpoche
Ringou Tulkou Rinpoché (1952-)
Ringou Tulkou Rinpoché sinh năm 1952 tại tỉnh Kham Tây Tạng, và sau khi Trung Quốc đánh chiếm Tây Tạng thì ông và cả gia đình vượt biên sang tị nạn ở Ấn Độ. Vừa năm tuổi ông đã được vị lãnh đạo học phái Ca Nhĩ Cư là Karmapa XVI thừa nhận là người tái sinh của một vị đại sư quá cố của tu viện Rigoul. Ông đỗ tiến sĩ triết học Phật Giáo và được đào tạo theo cả bốn học phái Phật Giáo Tây Tạng. Hiện nay cứ mỗi năm ông giảng dạy khoảng sáu tháng tại Pháp.
Phỏng vấn nhà sư Ringou Tulkou Rinpoché
Phải luôn ghi nhớ là thiền định gồm có ba phép luyện tập
Tập san Regard Bouddhiste: Kính chào vị Đáng kính, xin Ngài vui lòng giải thích ngắn gọn phép thiền định là gì.
Ringo Tulkou Rinpoché: Tôi xin nói ngay đấy là một phép luyện tập, một phương pháp tập luyện nhằm biến cải chính mình bằng cách cải thiện những kinh nghiệm cảm nhận về con người của chính mình, và nhờ đó mình sẽ trở nên cao đẹp và nhân từ hơn, ích lợi cho người khác hơn: như thế gọi là thiền định. Thiền định không phải là một sự suy tư (meditation) mà gồm có ba phép luyện tập khác nhau, và chúng ta luôn phải ghi nhớ điều này.
Phép luyện tập thứ nhất nhắm vào trí tuệ. Đấy là cách tập nhìn vào mọi sự vật và tìm hiểu mọi sự vật. Biết nhìn vào mọi sự vật một cách minh bạch và đúng đắn là một điều vô cùng quan trọng. Tóm lại phép luyện tập này dựa vào chủ đích tìm hiểu mọi sự vật là gì.
Phép luyện tập thứ hai là cách phải tiếp cận với sự sống như thế nào? Tức là cách phải giữ một thái độ hành xử ra sao trên phương diện thân xác, ngôn từ và tâm thức của mình? Nhiều người gọi đấy là việc giữ gìn giới luật, thế nhưng thật ra thì không hẳn đúng như thế mà đơn giản chỉ là cách phải hành động như thế nào cho thật đúng đắn, tất cả đều nhờ vào trí tuệ: khi nào quý vị phân biệt được hành động nào mang lại hậu quả tích cực và hành động nào mang lại hậu quả tiêu cực, thì tất quý vị cũng sẽ hiểu rằng mình phải hành xử ra sao để mang lại hậu quả tích cực cho mình và cho kẻ khác.
Phép luyện tập thứ ba là thiền định. Thiền định là một phép luyện tập tâm thức. Dù cảm thấy việc thiền định thật hữu ích và nên làm, thế nhưng lắm khi chúng ta lại không làm, chẳng qua chỉ vì một vài xúc cảm, thói quen hay xu hướng nào đó ngăn cản không cho chúng ta làm. Vì thế phải cải biến tâm thức mình khiến nó trở nên mềm dẻo và dễ bảo hơn. Dễ bảo có nghĩa là nếu quý vị bảo tâm thức "làm việc này" thì nó làm việc này, "không nên suy nghĩ quá nhiều" thì nó không suy nghĩ quá nhiều, "hãy suy nghĩ đi" thì nó suy nghĩ, "hãy tập trung tư tưởng" thì nó tập trung tư tưởng (tức là không phóng tưởng ra mọi hướng, chẳng hạn như không quay về quá khứ cũng không hướng vào tương lai, không nghĩ đến chuyện này, cũng không bắt sang chuyện kia), "hãy suy nghĩ một cách đúng đắn" thì nó suy nghĩ một cách đúng đắn (không suy nghĩ hay tưởng tượng xằng bậy). Sự dễ dạy của tâm thức thật vô cùng quan trọng đối với việc tu tập Phật Giáo, nếu không giữ được tâm thức dễ dạy thì nó sẽ trở nên bất trị, tương tự như một con khỉ phá phách hay một con voi đang lồng lộn. Muốn cho tâm thức dễ dạy thì phải để cho nó được yên và thư giãn. Tóm lại việc luyện tập thiền định là cách mang lại cho tâm thức sự thư giãn hầu giúp nó tìm về với thể dạng tự nhiên của nó.
Tập san RB: Vậy làm thế nào để thực hiện việc ấy?
R.T.R.: Có một giai thoại về bài thuyết giảng đầu tiên về thiền định của Đức Phật như sau: Ngài ngồi giảng bên bờ sông Hằng, các đệ tử bao quanh và lắng nghe. Thế nhưng bỗng dưng Ngài ngưng giảng và sai một đệ tử xuống sông múc một chậu nước mang lên. Đức Phật hỏi người đệ tử rằng: "Nước ấy có uống được không? Có sạch không?" Người đệ tử trả lời: "Bạch Thế Tôn, nước không uống được vì đầy bùn đất và mọi thứ cáu bẩn, thật không sạch tí nào". Đức Phật lại bảo như sau: "Tốt lắm, vậy cứ đậy chậu nước lại và để yên đấy, không nên chạm vào nữa". Đức Phật lại tiếp tục thuyết giảng. Một lúc thật lâu sau đó Đức Phật mới bảo với các đệ tử rằng: "Vậy hãy xem chậu nước bây giờ ra sao". Nhìn vào chậu nước một đệ tử thốt lên: "Ồ! chậu nước có vẻ sạch và có thể uống được rồi". Đức Phật bèn bảo rằng: "Trước đây nước không sạch, không uống được, bây giờ thì có thể uống được". Người đệ tử lại nói tiếp: "Trước đây nước xao động nên đục vì hòa lẫn với đủ mọi thứ. Nhờ để yên nên các thứ này lắng xuống, phẩm tính hay bản chất tự nhiên của nước nhờ đó đã hiện ra. Bản chất tự nhiên của nước mang tính cách tinh khiết và uống được".
Đức Phật lại giải thích thêm: " Cũng tương tự như thế, tâm thức chúng ta trong lúc này đang xao động khiến nó bị rối loạn, hoang mang và vướng vào mọi thứ xúc cảm, lo tính cũng như tình trạng căng thẳng (stress). Nếu chúng ta để nó thư giãn, giúp nó giữ được trạng thái tự nhiên, tức để yên không quấy rầy nó, thì phẩm tính đích thật của nó tất sẽ hiện ra. Một khi phẩm tính ấy hiện ra thì tâm thức cũng sẽ trở nên an bình, hân hoan, thân thiện và cởi mở hơn". Nếu muốn thực hiện được điều ấy thì phải giữ tâm thức thư giãn, không quấy rầy nó, không để nó rơi vào sự xao lãng (suy nghĩ hết chuyện này lại bắt sang chuyện khác), ngầy ngật hay mơ màng, có nghĩa là phải giữ tâm thức tỉnh táo và thư giãn (tuy nhiên trên thực tế việc ấy không phải dễ thực hiện. Khó khăn thứ nhất là không mấy ai trong chúng ta tự nhận mình đang sống trong tình trạng lo nghĩ, hoang mang và sợ sệt, trái lại luôn tự xem mình là sáng suốt, bình tĩnh và có lý..., và đấy cũng là lý do mang lại khó khăn và đớn đau cho mình và cho kẻ khác mà mình không ý thức được. Chỉ khi nào ngồi xuống trong yên lặng, chăm chú nhìn vào tâm thức mình để phân tích các xúc cảm đang hiện ra trong tâm thức thì mới nhận thấy tình trạng bấn loạn ấy đang chi phối mình thật nặng nề. Chỉ khi nào ý thức được thể dạng bị chi phối ấy thì mình mới hiểu rằng phải làm mọi cách để giữ cho tâm thức bình tĩnh, thư giãn và trong sáng. Tạo ra cho mình thể dạng bình lặng đó là khó khăn thứ hai: lúc đầu thể dạng đó cũng chỉ là một sự "tưởng tượng", sau đó và nếu cố gắng thì dần dần chúng ta sẽ "hé thấy" được nó, nếu tiếp tục "tập cho quen dần" (tiếng Tây Tạng gọi là gompa) với sự "hé thấy" ấy thì nó cũng sẽ hiện ra rõ ràng và thăng bằng hơn). Nếu quý vị giữ được thể dạng ấy trong một khoảng thời gian nào đó, thì tâm thức cũng sẽ trở nên mềm dẻo, dễ dạy và mình cũng sẽ dễ sống với nó hơn. Tóm lại thiền định cũng chỉ là như thế.
Sự chú tâm và một tâm linh luôn tỉnh thức là hai công cụ giúp chúng ta hành thiền
Thiền định cũng chỉ cần đến hai công cụ ấy!
Tập san RB: Thưa vị Tôn kính, kinh sách thường nói đến hai thể dạng tâm thức thật chủ yếu là nepa và gyurwa. Vậy hai thể dạng ấy giữ vai trò như thế nào đối với việc hành thiền?
R.T.R.: Nepa có nghĩa là tâm thức yên tĩnh, gyurwa có nghĩ là tâm thức đang vận hành, tức là đang trong thể dạng hoạt động. Tóm lại là tâm thức hoặc ở trong tình trạng yên tĩnh hoặc ở trong tình trạng năng động. Yên tĩnh có nghĩa là thư giãn, bình lặng, không suy nghĩ quá đáng và cũng không quá xao động, thể dạng này gọi là nepa. Gyurwa có nghĩa là tâm thức trong tình trạng năng hoạt, nói cách khác là nó đang làm việc, tư duy nổi lên, xúc cảm hiện ra, tâm thức tìm hiểu hết chuyện này đến chuyện kia... Những gì trên đây cho thấy sự khác biệt giữa hai thể dạng nepa và gyurwa. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể sử dụng thiền định khiến cho tâm thức phải trở nên dễ dạy hơn dù là đang trong thể dạng bình lặng nepa hay thể dạng năng động gyurwa cũng thế. Phải cố gắng thực hiện được điều đó. Chúng ta không thể lúc nào cũng ở trong tình trạng tĩnh lặng được, chuyện đó không thể thực hiện được. Vì thế mỗi khi tâm thức bình lặng thì cứ để yên cho nó trong thể dạng thư giãn ấy, và hãy cảm nhận sự an bình và hân hoan hiện ra với mình. Dầu sao cũng không thể giữ mãi được sự bình lặng ấy, do đó chúng ta cũng phải cố gắng tạo ra cho mình một sự thăng bằng nào đó cho tâm thức mỗi khi nó rơi vào tình trạng năng động. Chúng ta có thể tạo ra thể dạng thăng bằng trên đây bằng cách ý thức được là tâm thức mình đang làm việc. Mặc dù nó đang bận rộn và đang làm đủ mọi thứ chuyện thế nhưng chúng ta vẫn có thể giữ được sự tỉnh thức (pleine conscience / mindfulness / sự trầm tĩnh và cảnh giác không cho những sự suy nghĩ của tâm thức lôi kéo mình vào các thể dạng xúc cảm bấn loạn), chúng ta vẫn giữ được một chút chú tâm nào đó về những gì đang xảy ra, tương tự như mình vẫn kiểm soát được tâm thức dù chỉ được một chút nào đó (dù chỉ kiểm soát tâm thức được "một chút", thế nhưng "một chút" ấy chính là điểm khởi đầu giúp mình "tập luyện thêm cho quen dần", bởi vì đến một lúc nào đó "một chút" ấy sẽ trở thành quan trọng hơn và mình sẽ kiểm soát và canh chừng được việc làm của tâm thức hiệu quả hơn). Thật hết sức quan trọng là phải biết lợi dụng cả hai thể dạng bình lặng và năng động trên đây trong mục đích biến cải tri thức mình và giúp mình tiếp tục tiến bước trên con đường tu tập (nếu tâm thức trong tình trạng bình lặng thì thật tốt, nên lợi dụng ngay những lúc ấy để tận hưởng sự an vui và hân hoan trong lòng, nếu nó đang cật lực làm việc thì nên canh chừng xem nó làm những việc gì, sự canh chừng đó sẽ giúp mình "quen dần" trong việc kiểm soát nó. Sự canh chừng và quen dần ấy chính là phép hành thiền, và hành thiền cũng có nghĩa là mình đang bước trên con đường đưa đến Giác Ngộ. Tu tập với cờ quạt phất phới, chuông mõ vang rền chỉ là cách dừng lại trên con đường để giải trí và vui chơi mà thôi).
Tập san RB: Vậy vai trò của sheshin và drenpa (tiếng Tây Tạng) là gì đối với sự chuyển đổi giữa hai thể dạng bình lặng và năng động?
R.T.R.: Drenpa có nghĩa là tâm linh tỉnh thức (pleine conscience / mindfulness), sheshin là sự chú tâm. Sự chú tâm và tâm linh tỉnh thức là hai công cụ giúp chúng ta hành thiền. Thật ra chúng ta cũng chỉ có hai công cụ ấy thôi (nhà sư Ringou Tulkou mỉm cười).
Bures-Sur-Yvette, 30.10.13
Hoang Phong chuyển ngữ
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


Bài 2: Zazen hay tư thế ngồi thiền

03/11/201321:53(Xem: 183)
Duc_Phat_Thich_Ca (2)

Bài 2
Zazen hay tư thế ngồi thiền
Thiền sư Pierre Dôkan Crépon
Bài dưới đây được trích từ một quyển sách của thiền sư Pierre Dôkan Crépon mang tựa là " Nghệ thuật ngồi thiền" (L'Art du zazen, nxb Sully, 2012), trình bày một vài khía cạnh của phép luyện tập zazen và cũng là cốt lõi của cả học phái Tào Động (Sôtô). Đối với học phái này thì zazen hay tư thế ngồi thiền (nghĩa từ chương của chữ zazen là "thiền định bằng cách ngồi") không đơn giản chỉ là một phương pháp hay một công cụ giúp mang lại một thể dạng tâm thần đặc biệt nào cả, mà đúng hơn là một cách phát lộ trực tiếp bản thể giác ngộ của người tu tập. Quan điểm đó được diễn tả bằng một câu tóm lược như sau: "sự luyện tập và sự thực hiện cũng chỉ là Một thứ", thật vậy toàn bộ giáo huấn zazen cũng chỉ căn cứ vào ý nghĩa của câu ngắn gọn này.
Pierre Dokan
Pierre Dôkan Crépon luyện tập thiền định từ năm 20 tuồi, được chính thức thụ phong tỳ kheo với Thiền sư Taisen Deshimaru vào năm 1975. Sau đó ông xin thụ giáo với Thiền sư Shinzan Egawa Jenzi và cùng tu tập với vị này ở ngôi chùa Sojiji rất nổi tiếng ở Nhật. Ông từng là chủ bút tập san "Zen" của Hội Thiền Học Quốc Tế (AZI) từ năm 1977 đến 1987, và cũng từng là chủ tịch Tổng Hội Phật Giáo Pháp từ năm 2003 đến 2007, và hiện là đương kim chủ tịch Hội Thiền Học Quốc Tế.
Zazen cũng chỉ đơn giản có nghĩa là ngồi xuống
Zazen (Za là ngồi, Zen là thiền định) có nghĩa là ngồi lên một cái gối (tọa cụ), hai chân bắt tréo vào nhau, toàn thân giữ thẳng. Ngồi xuống là một việc thật quan trọng và phải làm trước nhất. Các chi tiết khác của tư thế ngồi - chẳng hạn như phải bắt tréo hai chân như thế nào, hai bàn tay phải đặt lên nhau như thế nào, mắt phải hướng ra trước mặt như thế nào, v.v... - tất cả phải thật chính xác, do đó tốt hơn hết là nhờ một người sành sỏi trực tiếp chỉ dẫn cho mình phải ngồi như thế nào cho thật đúng cách(thật ra thì nên học hỏi trực tiếp tại các trường dạy thiền hay dojo. Trong những buổi hành thiền tập thể sẽ có các vị sư giữ trọng trách theo dõi, nếu thấy mình ngồi sai thì sẽ yên lặng đến bên cạnh để giúp sửa lại tư thế. Thường cần phải để ra nhiều tháng hay nhiều năm mới tạo được một tư thế đúng cách và tự nhiên, bởi vì sau khi ngồi được một lúc thì chúng ta thường hay quên không còn chú ý đến tư thế ngồi của mình xem có còn giữ đúng hay không. Đây cũng là một cách phản ảnh bản chất nghiêm khắc, chính xác và quy củ của người Nhật). Ngày nay các trung tâm dạy thiền được thiết lập khắp nơi, nên việc này cũng không phải là quá khó (xin hiểu là tác giả viết cho những người đọc ở Pháp ngày nay). Zazen (tư thế ngồi thiền) biểu trưng cho sự Giác Ngộ của chính Đức Phật Thích-ca Mâu-ni được lưu truyền và tiếp nối cho đến ngày nay, vì thế sự tiếp nối ấy mang tính cách thật quan trọng và nhất thiết không đơn giản chỉ là một phép luyện tập thiền định thông thường (ngồi xuống thật vững vàng, hai chân bắt tréo, toàn thân vươn lên, uy nghi và im lặng như một quả núi, tương tự như một vị Phật đang ngồi: nói cách khác là ngồi xuống như một vị Phật và để trở thành Phật). Học phái Tào Động (Sôtô) là một dòng thiền được hình thành ở Ấn Độ, được truyền sang Trung Quốc, Nhật Bản và du nhập vào thế giới Tây Phương bắt đầu từ thế kỷ vừa qua. Zazen (thiền định bằng tư thế ngồi) không nhắm vào một sự thực hiện nào cả, có nghĩa là không tập trung tâm thức hướng vào một thứ gì cả, chẳng hạn như một vị thần linh, một câu man-tra (một câu tụng niệm mang tính cách thiêng liêng), một hình tượng, cũng không suy tư về một vấn đề nào cả, dù là cá nhân hay giáo lý. Đồng thời cũng không tìm cách khơi động hay ngăn chận một tư duy nào cả, cũng không cố gắng tạo ra một thể dạng tinh khiết hay một thể dạng tri thức đặc biệt nào cả. Chỉ cần ngồi xuống và giữ toàn thân trong một tư thế thật đúng. Dưới khía cạnh đó Zazen là một phép tu tập thật hết sức đơn giản, thế nhưng thật ra là hết sức thâm sâu, hướng sức sống của người hành thiền vào một bầu không gian thật rộng lớn.
Cứ để cho tư duy trôi đi một cách tự nhiên
Vị Thầy Keizan (Keizan Jokin, 1268-1325) có nói rằng điều cần phải ghi nhớ khi luyện tập zazen (Zazen Yojinki) là: "Trong khi ngồi thiền, phải gác sang một bên tất cả mọi chuyện và cứ để cho các thứ nối kết (association / sự liên kết giữa các tư duy đưa đến mọi thứ lo toan, mưu tính...) tự tan biến đi". Gác sang một bên tất cả mọi chuyện đang làm mình bận tâm và lo nghĩ tất nhiên không phải là chuyện dễ làm. Vì thế thật hết sức quan trọng phải luyện tập chung với nhiều người khác trong những nơi dành riêng cho việc hành thiền (thiền học chủ trương phải hành thiền chung với nhiều người trong một thiền đường trang nghiêm, với các nghi thức được quy định thật chi tiết và khắt khe. Ôm tọa cụ bước vào ngưỡng cửa thiền đường, nhìn lên bàn Phật để vái lạy cũng là một cách bước vào một thế giới khác, một khung cảnh khác mang lại cho mình một cuộc sống khác, giúp mình bỏ lại sau lưng những lo toan thế tục dễ dàng hơn. Ngồi xuống với nhiều người khác cũng là một cách nương tựa vào sức mạnh và bầu không khí nghiêm trang do tập thể tạo ra. Nếu không đủ sức cảm nhận được sự trợ lực đó thì cũng có thể nhìn vào những người ngồi chung quanh để bắt chước họ). Khung cảnh của thiền đường là một sự trợ lực không nhỏ, bởi vì hành thiền một mình ở nhà sẽ khó gác sang một bên những công việc riêng tư. Sự kiện "cứ để cho mọi sự lo toan tan biến đi" cũng có nghĩa là "để mọi thứ tư duy trôi đi". Tư duy luôn có xu hướng kết nối và níu kéo nhau không bao giờ ngưng nghỉ. Nếu cứ để cho các sự nối kết ấy tự tan biến, thì các tư duy ("nhẹ nhàng" hơn phát sinh từ sự vận hành đơn giản của tri thức) mới có thể hiện ra và biến đi và không lôi kéo mình tham gia vào sự tiếp diễn đó của chúng(không tham gia vào việc nối kết các tư duy làm phát sinh ra mọi thứ suy nghĩ, lo toan, mưu tính và các thứ xúc cảm khác). Nếu muốn cho sự nối kết (giữa các tư duy trong tâm thức) không thể xảy ra được thì không nên chú ý đến những gì cất chứa bên trong tư duy, không nên nghe lời chúng (tư duy cũng chỉ là tư duy, dù chúng có chuyển tải nội dung như thế nào thì cũng mặc. Nếu nhìn vào những gì chúng chuyển tải để "liên kết" chúng với nhau, thì tâm thức mình sẽ bị tràn ngập ngay bởi mọi thứ tính toán, lo nghĩ và xúc cảm đủ loại). Đức Phật có dạy rằng: "Nghe lời tư duy có nghĩa là lọt ra ngoài ngưỡng cửa". Không nên nghe lời tư duy là cách làm cho các sự nối kết phải tan biến đi, và đấy là cách giúp tư thế zazen của mình được vững vàng hơn (xao động thì ngồi không yên): và đấy cũng chính là cách giúp mình bước trở vào ngưỡng cửa để tìm về với thể dạng nguyên sinh của chính mình. Vị Thầy Keizan cũng đã từng nói rằng: "Zazen sẽ khiến cho mọi sự được nghỉ ngơi và luân lưu một cách tự nhiên, mở vào mười hướng của không gian" (không gian đối với một người bình dị có tám hướng, đối với một người tu tập có mười hướng gọi là mười phương Phật: trên đầu và dưới chân cũng là hai hướng khác của không gian, người hành thiền bắt tréo hai chân ngồi xuống, im lặng giữa không gian bao la, trống không và vô tận).
Không hướng vào những gì thuộc thế giới phàm tục
Người hành thiền luyện tập một điều gì đó mà chính họ cũng không sao nói ra được, và dù có tìm cách để bày tỏ điều ấy thì cũng không hiểu rằng mình có thấy triệt được hay không để mà nói lên điều ấy.
Luyện tập zazen cũng có nghĩa là quan tâm đến những gì không thuộc vào thế giới phàm tục. Điều đó không có nghĩa là hướng ra bên ngoài, trốn tránh hay tự tách rời mình ra khỏi thế giới này. Trái lại phải ý thức rằng việc tu tập của mình đang diễn ra ở giữa thế gian này và cả ở bên trong con tim của chính mình nữa, đấy là cách xem thân xác mình như một công cụ giúp mình tiếp cận với thế giới chung quanh. Vì thế luyện tập theo con đường zazen cũng là một cách đi ngược lại với những quan niệm thường tình của thế giới phàm tục. Người hành thiền không hướng vào một mục đích nào, cũng không chờ đợi một sự thăng tiến tuần tự nào. Người hành thiền luyện tập một điều gì đó mà chính họ cũng không sao nói ra được, và dù có tìm cách bày tỏ điều ấy thì cũng không hiểu rằng mình có thấy triệt được hay không để mà nói lên điều ấy. Phép luyện tập đó không liên quan đến bất cứ một giá trị nào của thế giới phàm tục, tất cả mọi sự phận biệt (những sự diễn đạt, các quy ước...) đều bị xóa bỏ: đàn ông, đàn bà, trẻ đẹp, già nua, quyền cao, chức trọng..., tất cả sẽ không còn mang một giá trị nào nữa đối với một người khi đã ngồi xuống với tư thế zazen. Nếu có ai cảm thấy hãnh diện về việc luyện tập của mình cũng như thành tích lâu dài mà mình đã thực hiện được trước đây thì có nghĩa là người ấy đã hoàn toàn sai lầm. Nếu mặt phải (của một sự vật) có sự phân biệt, thì mặt trái (của nó) sẽ không có một sự phân biệt nào cả. Mặt trái thuộc bên ngoài thế giới phàm tục và người tu tập phải hướng vào chính mặt trái ấy (mỗi khi chúng ta nhìn vào những người chung quanh, dù họ là người thế tục hay tu hành, và nếu thấy họ mải mê và phờ phạc chạy theo những giá trị phàm tục thì mình có cảm thấy khiếp sợ hay không? Hay mình cũng nôn nóng tìm đủ mọi cách để tham gia với họ?). Nếu muốn thực hiện được điều ấy thì phải thật cố gắng, kiên nhẫn và bền chí. Thế nhưng mặt khác nhờ vào chính sự kiên trì ấy chúng ta cũng sẽ tận hưởng được một sự vui sướng nào đó thoát ra từ một sự thỏa mãn thật sâu xa. Tuy nhiên không phải vì thế mà mình không thụ hưởng được những gì của thế giới phàm tục (tuy tâm thức thoát tục thế nhưng hai chân mình vẫn có thể tiếp tục bước đi giữa thế gian này, không khác gì những kẻ khác), thế nhưng không được để cho những thứ ấy tàn phá mình (không được dừng chân lại với những giá trị phàm tục), nếu không sẽ khó tránh khỏi nguy cơ đánh mất những gì thiết thực (lạc hướng trên con đường mà mình đang bước).
Thân xác vươn thẳng cũng có nghĩa là tâm thức an bình
Luyện tập zazen là chọn một phép ngồi với hai chân bắt tréo vào nhau và giữ lưng thật thẳng. Đấy là tư thế thích nghi nhất giúp mình ngồi im, giữ sự yên lặng, hít thở dễ dàng và tránh được mọi sự sự xao lãng. Ở Ấn Độ vào thời kỳ của Đức Phật cũng đã từng có nhiều người tìm kiếm Con Đường (sự tu tập và giác ngộ) bằng các tư thế thật kỳ lạ: chẳng hạn như đứng một chân, hai tay đưa ngược lên trời, hoặc bắt tréo một chân ngược ra sau gáy (ý nói đến các phép hành xác của các tín đồ đạo Ja-in vào thời kỳ của Đức Phật). Ngay cả ngày nay người ta vẫn còn thấy các người sâdhu (Hán dịch là ni-kiền tử, là những người xa lánh thế tục, để râu tóc mọc dài, trát tro lên người nhằm biểu trưng cho kiếp sống tạm bợ và luân hồi của mình, họ sống bằng cách du thực, và chỉ lo luyện tập du-già và tự hành xác...) thực thi các tư thế ấy. Vào các thời kỳ khi Thiên Chúa Giáo mới bắt đầu phát triển ở Trung Đông và cả ở Tây Phương, cũng từng có các tu sĩ khổ hạnh chuyên luyện tập các tư thế đặc biệt nhằm giúp mình tìm kiếm Con Đường. Chẳng hạn như các "tu sĩ sa mạc" (moines du désert / monks of the desert / một giáo phái Thiên Chúa Giáo) di chuyển bằng cách bò bốn chân, hoặc các tu sĩ stylite (stylite monks / một giáo phái khác của Thiên Chúa Giáo, chủ trương phái sống hành xác trên đầu một cây cột), hoặc các tu sĩ người Ái-nhĩ-lan (Ireland) bắt tréo hai tay vào nhau thành hình chữ thập và nhảy ùm xuống nước băng dá. Đức Thích-ca Mâu-ni bác bỏ mọi hình thức khổ hạnh đại loại như thế, Ngài nói rằng "tất cả mọi hình thức khổ hạnh đều không mang lại sự một an bình và thư thái nào cả cho con người". Ngài dạy rằng chỉ cần ngồi xuống, lưng thẳng và hai chân bắt tréo vào nhau. Trong một bài kinh Ngài có giải thích tại sao phải làm như thế: "Nếu chú tâm giữ cho thân xác ngay thẳng thì con tim và tâm thức cũng theo đó mà trở nên ngay thẳng. Với tư thế ngồi im và thân người thật thẳng con tim sẽ không còn cảm thấy đớn đau". Nói đến con tim thì cũng là cách nói đến tâm thức. Khi con tim mang những tâm ý đúng đắn (những xúc cảm chân thật và tinh khiết), thì tư duy cũng ngưng nghỉ và an trú trong thực tại (tâm thức không tìm cách giàn xếp chuyện này cũng không lo tính chuyện khác). Nếu con tim bị tán loạn(tức là chạy theo tư duy) hoặc thân xác nhúc nhích hay lưng không thẳng, thì phải ý thức ngay và sửa lại cho đúng. Một khi đã tập trung thật sâu vào tư thế zazen, thì sự tập trung ấy sẽ hóa giải được các tư duy tán loạn và mọi sự xao lãng. Nếu kiên trì luyện tập theo phương pháp ấy thì chúng ta cũng sẽ phát huy được một thể dạng tập trung tâm thần thật bình lặng và vô biên.
Bures-Sur-Yvette, 03.11. 13
Hoang Phong chuyển ngữ
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Bài 3: Như một dòng nước lặng lẽ trôi

07/11/201306:21(Xem: 138)

Phat_Thich_Ca
Bài 3
Như một dòng nước lặng lẽ trôi
Bài giảng tại chùa Wat Tum Saeng Pet
vào dịp kiết hạ năm 1981
Tỳ kheo Khất Sĩ Ajahn Chah
Bản dịch tiếng Pháp: Jeanne Schut
Chuyển ngữ: Hoang Phong
ajahn-chah
Tỳ kheo Khất Sĩ Ajahn  Chah (1918-1992)
            Ajahn Chah (1918-1992) là một nhà sư nổi tiếng của Thái Lan và cũng được xem là một trong số các vị thiền sư lỗi lạc nhất của thế kỷ XX. Cách thuyết giảng trực tiếp, minh bạch và dễ hiểu của ông đã thu hút được đông đảo người nghe. Kiến thức uyên bác của ông cũng đã góp phần giúp cho Phật Giáo Thái Lan tiến một bước thật dài trong thế kỷ XX, và đã tạo thêm nhiều uy tín cho Phật Giáo Theravada nói chung trong thế giới Tây Phương.
            Ngày còn trẻ ông đã từng xuất gia suốt trong ba năm liền, thế nhưng sau đó ông đã trở về giúp cha mẹ trong việc đồng áng. Năm hai mươi tuổi ông lại quyết định trở vào chùa, và sau đó được thụ phong tỳ kheo vào ngày 26 tháng 4 năm 1939. An phận với cuộc sống của một người tỳ kheo trẻ, ông chăm lo tu học và nghiên cứu kinh sách, và nhờ đó ông cũng rất thông thạo tiếng Pa-li. Thế nhưng năm năm sau thì cha ông ngã bệnh rồi qua đời, biến cố ấy đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của ông. Trực tiếp cảm nhận được bản chất của khổ đau là gì nên ông lại càng muốn đến gần hơn nữa với cái bản chất ấy của sự sống hầu giúp mình tìm hiểu sâu xa hơn những lời giáo huấn của Đức Phật. Ông rời chùa và sống cuộc đời của một người tỳ kheo khất sĩ. Ông đi chân đất hơn bốn trăm cây số xuống miền trung nước Thái, khất thực từ làng này sang làng khác, đêm ngủ dưới các gốc cây hay trong nghĩa địa. Sau cùng ông xin vào tu trong một ngôi chùa tuy nhỏ nhưng thật nghiêm khắc, bắt người xuất gia phải giữ giới luật thật nghiêm túc và khắt khe. Thế nhưng chính trong ngôi chùa này ông lại được nghe nói đến một vị thiền sư lỗi lạc là Ajahn Mun Bhuridatto tu tập trong một ngôi chùa ở miền đông bắc Thái. Ajhan Chah lại ôm bình bát quay về phương bắc để xin tu tập với vị thiền sư này.
            Một hôm ông hỏi thiền sư Ajahn Mun rằng kinh sách thật hết sức phong phú, chính xác và vô cùng tinh tế, thế nhưng ông không biết phải làm thế nào để ứng dụng vào việc tu tập của mình. Nhà sư Ajahn Mun trả lời rằng giáo huấn thật hết sức phong phú và chi tiết, thế nhưng cốt lõi thì lại hết sức đơn giản,  phát huy được sự chú tâm thì sẽ nhận thấy ngay rằng tất cả cũng chỉ là do nơi tâm(coeur-esprit / heart-spirit / chữ tâm có hai nghĩa: vừa tâm lại vừa tim) của mình, đấy chính là con đường tu tập đích thật. Một câu giảng thật hết sức ngắn gọn thế nhưng đã mở ra cho Ajahn Chah cả một Con Đường.
            Sau đó ông lại trở về với lối sống của một người tỳ kheo khất sĩ trong khu rừng Pah Pong, đầy cọp, rắn và muỗi sốt rét. Thế nhưng rất nhiều người vào rừng tìm ông để xin làm đệ tử. Một ngôi chùa mang tên là Wat Pah Pong được dựng lên trong khu rừng, và dần dần sau đó nhiều ngôi chùa khác được dựng lên chung quanh.
            Năm 1967, một tỳ kheo người Mỹ vừa mới được thụ phong là Ajahn Sumedho lên vùng bắc Thái để nhập cư kiết hạ và tình cờ được nghe nói đến Ajahn Chah. Nhà sư trẻ người Mỹ này tìm gặp ông và xin thụ giáo. Ajahn Chah thường bắt các đệ tử của ông sống thật khắc khổ, sai bảo những việc đôi khi vượt hơn cả sức chịu đựng của họ với mục đích thử thách quyết tâm của họ và đồng thời cũng giúp họ ý thức được là không nên chỉ biết bám víu vào sự an lạc mang lại từ phép thiền định. Nhà sư trẻ Ajahn Sumedho sau năm năm chịu đựng đã vượt được các thử thách ấy và Ajahn Chah bắt đầu giảng Pháp cho ông. Ajahn Sumedho ngày nay đã trở thành một tỳ kheo khất sĩ người Tây Phương rất nổi tiếng, và hiện trụ trì một ngôi chùa ở Anh Quốc.
            Năm 1981, Ajahn Chah ngã bệnh vì bị tiểu đường. Người ta đưa ông về Bangkok để chữa trị, thế nhưng bệnh tình ngày càng trầm trọng. Một thời gian sau thì ông không còn cử động được và cũng không còn nói năng gì được nữa. Bài giảng dưới đây là một trong những bài giảng cuối cùng của ông trước khi lâm bệnh. Người dịch cũng xin mạn phép trích ra đây một câu giảng của ông, vì thiết nghĩ câu này cũng đáng cho mỗi người trong chúng ta suy ngẫm và cũng là một dịp để nhìn lại hành động, cuộc sống và mọi thứ mưu tính trong tâm thức mình. 
"Đạo đức là căn bản thật cần thiết giúp mang lại một thế giới hài hòa, trong thế giới đó mọi người đều được sống xứng đáng như những con người, không như loài thú vật. Phát huy đạo đức là tâm điểm của việc tu tập. Hãy giữ gìn giới luật, phát động lòng từ bi và kính trọng mọi hình thức của sự sống. Phải thận trọng trong từng lời nói và hành động. Hãy xem đạo đức như một phương tiện nhằm giúp mình đơn giản hóa và tinh khiết hóa cuộc sống của mình. Khi nào đạo đức trở thành nền móng hiện ra trong từng hành động của mình, thì tâm thức cũng theo đó mà trở nên nhân từ, trong sáng và an bình hơn. Trong bối cảnh ấy, thiền định mới có thể nẩy nở một cách dễ dàng được" - Ajahn Chah.   
Bài Giảng của Ajahn Chah
            Bắt đầu từ giây phút này, tôi xin quý vị hãy cố gắng chú tâm, đừng để tâm trí mình phiêu du hết nơi này đến nơi khác. Quý vị hãy tưởng tượng rằng mình đang ngồi một mình trên đỉnh núi cao hay trong một khu rừng hoang vắng. Quý vị là gì và tại sao lại đang ngồi ở đấy? Phải chăng quý vị đang mang một thân xác và một tâm thức hay không - thật thế, không có gì khác hơn ngoài hai thứ ấy. Những gì cất chứa bên trong nhân dạng một con người đang ngồi nơi ấy chỉ đơn giản gồm một thứ gọi là "thân xác", và một thứ gọi là "tâm thức". Đối với tâm thức thì nó là một thứ gì đó biết ý thức và trong lúc này thì nó cũng đang suy nghĩ (không cần giảng về vô ngã là gì thế nhưng nếu nhìn vào nhân dạng con người của mình đang ngồi lẻ loi trên đỉnh núi hay hun hút trong chốn rừng sâu thì mình cũng cảm thấy tính cách vô thực thể và vô ngã của chính mình. Xin chắp tay bái phục !).
            Nếu muốn tìm hiểu xem một cái gì đó đang ngồi tại nơi này và trong giây phút này, thì đấy cũng chỉ là một thân xác và một tâm thức. Chúng ta thường lẫn lộn giữa hai thứ ấy, thế nhưng nếu muốn tìm thấy sự an bình thì phải hiểu bản chất đích thật của hai thứ ấy là gì. Trong lúc này thì tâm thức chưa được luyện tập, nên nó còn nhơ bẩn và u tối - có nghĩa là nó chưa phải là một một tâm thức tinh khiết. Vì thế chúng ta phải sử dụng phép thiền định để luyện tập nó.
            Nhiều người nghĩ rằng thiền định là phải ngồi xuống, hai chân bắt tréo vào nhau, thế nhưng thật ra thì cũng có thể thiền định với bất cứ một tư thế nào. Chúng ta có thể thiền định khi đang đứng, đang ngồi, đang đi hay đang nằm, tóm lại là có thể thiền định vào bất cứ lúc nào (trong nếp sống thường nhật). Nghĩa từ chương của chữ Samâdhi là "tâm thức được thiết lập một cách vững chắc".Nếu muốn phát huy samâdhi thì không được bóp ngạt tâm thức! Luyện tập samâdhi là nhằm phát huy trí tuệ và sự hiểu biết. Samâdhi là một tâm thức vững chắc, tập trung vào một điểm duy nhất. Vậy thì nó tập trung vào điểm nào? Đấy là điểm thăng bằng. Nó tập trung đúng vào điểm ấy. Tuy nhiên nhiều người lại nghĩ rằng luyện tập thiền định là phải tìm cách làm cho tâm thức phải im lặng. Họ thú nhận rằng: "Tôi cố gắng ngồi xuống để thiền định thế nhưng không sao giữ cho tâm thức dừng lại được một phút nào cả. Nó chạy hết đầu này đến đầu kia. Vậy làm thế nào để bắt nó phải dừng lại?" Thiền định nào có phải là bắt tâm thức dừng lại đâu. Phải luôn cần có một sự chuyển động thì sự hiểu biết mới có thể bùng lên được.
            Người ta thường than phiền: "Tâm thức phóng đi, tôi lôi nó trở lại; nó lại phóng đi, tôi lại phải lôi nó về". Ngồi đấy để đuổi bắt tâm thức quả là mất hết thì giờ. Họ cứ tưởng rằng tâm thức chạy tán loạn ra khắp hướng, thế nhưng thật ra thì đấy chỉ là một cảm giác mà thôi (tâm thức vẫn ở một chỗ, tức là bên trong não bộ của mình, nó chẳng chạy cũng chẳng phóng đi đâu cả, nó chỉ dậm chân tại chỗ để mà hành hạ mình thế thôi). Chẳng hạn một số người khi nhìn vào gian phòng này sẽ thốt lên: "Ồ, gian phòng to quá!" Thế nhưng thật ra thì gian phòng cũng chẳng to lớn gì. Nếu quý vị cho rằng nó to lớn thì đấy cũng chỉ là một sự cảm nhận của quý vị mà thôi (chỉ là một sự diễn đạt của tâm thức). Trên thực tế, gian phòng chỉ mang kích thước của nó, kích thước đó (tự nó) không lớn cũng không nhỏ (to lớn hay chật hẹp là do sự diễn đạt chủ quan và quy ước của tâm thức khi nó cảm nhận được kích thước của gian phòng. Đối với gian phòng thì nó vẫn là như thế, nó có kích thước như thế, không rộng cũng không hẹp. Thí dụ ngoài sân có ba gốc xoài, con số ba và các cây gọi là cây xoài chỉ có trong tâm thức của người nhìn ra sân, ngoài sân chỉ có "cây cối" mà thôi). Thế nhưng mọi chuyện lại cứ xảy ra như thế! Người ta bỏ hết thì giờ vào việc đuổi theo các cảm giác (impression, feeling / cảm tưởng hay sự tưởng tượng, sự đánh giá hay diễn đạt) của mình. Thiền định là nhằm vào mục đích mang lại sự an bình, (không phải là cách đuổi bắt các sự cảm nhận)... Vì thế trước hết phải hiểu an bình là gì, nếu không thì chẳng bao giờ chúng ta có thể tìm được nó.
            Thông thường người ta nghĩ rằng "an bình" là một sự lắng dịu của tâm thức, thế nhưng thật ra an bình là sự lắng dịu của những thứ ô nhiễm tâm thần (những xúc cảm bấn loạn, những sự quán nhận sai lầm về hiện thực, nói theo kinh sách thì đấy là các tác động của vô minh). Đối với sự an bình theo cách mà người ta thường hiểu thì các thứ ô nhiễm tâm thần cũng chỉ tạm thời được đặt sang một bên, tương tự như lấy một tảng đá đè lên một đám cỏ. Bởi vì khi lấy tảng đá đi thì vài hôm sau cỏ lại mọc lên trở lại. Cỏ chỉ tạm thời bị lấp đi nhưng không bao giờ biến mất. Samâdhi(sự tập trung tâm thần, sự tĩnh lặng, sự định tâm hay "nhập định") cũng hoàn toàn tương tự như thế: tâm thức tạm thời lắng dịu thế nhưng các thứ ô nhiễm tâm thần thì vẫn còn nguyên! Thể dạng samâdhi mang lại một hình thức an bình nào đó, tương tự như tảng đá che khuất cỏ, sự an bình ấy chỉ có tính cách tạm thời(trong khi thiền định chúng ta có thể phát huy được thể dạng samâdhi, thế nhưng sau khi nhập cuộc trở lại với các sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật thì đâu cũng lại hoàn đấy). Nếu muốn tìm thấy một sự an bình đích thật thì phải phát huy trí tuệ. Sự an bình do trí tuệ mang lại sẽ tương tự như tảng đá để nguyên một chỗ. Nếu quý vị không lấy tảng đá đi thì cỏ cũng sẽ không bao giờ có thể mọc lại được. Đấy là sự an bình đích thật, và cũng là sự chấm dứt của các thứ ô nhiễm tâm thần.
            Chúng ta vừa nói đến trí tuệ (pannâ) (pannâ là tiếng Pa-li, tiếng Phạn là prajnâ) và sự tĩnh lặng (samâdhi) có vẻ như là hai thứ khác nhau, thế nhưng phải hiểu rằng từ căn bản, hai thứ ấy cũng chỉ là một. Trí tuệ là thể dạng năng động của samâdhi, và samâdhi là thể dạng thụ động của trí tuệ. Cả hai có cùng một nguồn gốc như nhau, nhưng lại hướng vào hai chiều khác nhau và đảm trách các chức năng khác nhau [...].
            Khi nào cần phải ngồi xuống để thiền định thì quý vị cứ ngồi xuống, thế nhưng không được quên rằng cứ phải ngồi xuống thì mới có thể thiền định được. Phải để cho tâm thức được tự do sống một cách trọn vẹn với mọi sự vật, hãy để cho mọi sự vật chuyển động hầu giúp chúng cảm nhận được bản chất đích thật của chúng (câu này khá bao quát và trừu tượng: có nghĩa là hãy để cho mọi sự vật - các hiện tượng thuộc bối cảnh bên ngoài và các tư duy trong tâm thức mình - chuyển động một cách tự nhiên. Hãy cảm nhận chúng là như thế và không tìm cách diễn đạt hay lèo lái chúng, hãy để chúng diễn tiến đúng với bản chất và các quy luật thiên nhiên chi phối chúng. Thí dụ đối với tư duy hiển hiện trong tâm thức thì cứ theo dõi chúng, không tham gia cũng không chống lại, mà chỉ nên xem chúng là vô thường và không đúng thật, không mang một giá trị đích thật nào cả). Vậy phải nhìn vào chúng như thế nào? Phải xem chúng mang tính cách vô thường, không hoàn hảo và vô cá thể (impersonal / vô ngã, không hàm chứa một thực thể hay một sự hiện hữu đích thật). Tất cả đều bất định. Nếu quý vị cho rằng: "Vật này đẹp tuyệt vời! Nhất định tôi phải chiếm hữu nó mới được", thì quý vị cũng nên nghĩ ngay rằng: "Chuyện đó chưa chắc đã là đúng" (chưa chắc vật ấy đẹp tuyệt vời một cách thật sự). Hoặc nếu quý vị cho rằng: "Tôi không thích thứ ấy một chút nào cả!", thì cũng phải nghĩ ngay: "Chưa chắc là đúng". Có phải thế hay không? Quả đúng là như thế đấy quý vị ạ! Chắc chắn không sai đâu (diễn đạt một sự cảm nhận nào đó cũng chỉ là một sự đánh giá chủ quan, sự diễn đạt ấy chỉ mang tính cách nhất thời - tức là vô thường - và không hề hàm chứa một giá trị tuyệt đối nào cả).
            Có những món ăn trông có vẻ thật tuyệt vời, thế nhưng ngay cả đối với những chuyện (nhỏ nhặt) như thế quý vị cũng phải tự nhắc nhở mình: chưa chắc đã đúng. Tuy có vẻ đúng thật là như thế, đĩa thức ăn thật ngon, thế nhưng quý vị cũng cứ phải nghĩ rằng: "Chưa chắc!" Nếu muốn kiểm chứng điều ấy thì cũng không phải là chuyện quá khó: quý vị cứ thử ăn món ăn mà mình ưa thích mỗi ngày xem sao - tôi xin nhắc lại là quý vị ăn mỗi ngày cùng một món ấy, thì sớm muộn quý vị cũng chán ngấy và sẽ phải thú nhận rằng: "Món ăn không còn ngon như trước nữa". Sau đó quý vị cũng có thể nghĩ rằng: "Thật ra tôi thích các món ăn khác hơn" Thế nhưng cũng lại chưa chắc là đúng như thế (tóm lại là phải luôn nghi ngờ mọi cảm nhận của mình. Bởi vì đấy cũng chỉ là những phản ứng của tâm thức chi phối bởi tác động phát sinh từ xung năng của nghiệp. Nếu chú ý thì chúng ta sẽ nhận thấy là trong suốt bài giảng nhà sư Ajahn Chah luôn tìm cách đơn giản hóa căn bản và các khái niệm thật thâm sâu trong giáo lý nhằm giúp người nghe dễ hiểu và dễ theo dõi hơn. Ông không hề sử dụng các thuật ngữ chuyên biệt trong kinh sách, cũng không giải thích dông dài về lý thuyết)!
            Một số người hành thiền ngồi im "trong tư thế thiền định" cho đến khi tâm thần ngầy ngật, nhìn vào cứ tưởng như họ sắp chết đến nơi, họ không còn ý thức được là mình đang ở đâu nữa. Quý vị không nên để mình rơi vào tình trạng bế tắc như thế! Nếu cảm thấy buồn ngủ thì nên đứng lên đi đi lại lại! Hoặc sửa lại tư thế ngồi! Phải biết suy nghĩ. Nếu thật sự mệt mỏi thì cứ nằm ngủ, thức dậy sẽ thiền định trở lại. Luyện tập là phải như thế: phải ý thức, sáng suốt và nhận định đúng đắn. Tu tập trước nhất là phải quán nhìn vào thân xác và tâm thức mình. Phải nhìn thấy bản chất vô thường của chúng(những gì thuộc thân xác như vóc dáng, sắc đẹp, sức khoẻ, duyên dáng, mỹ miều... và cả những thứ hỗn độn trong tâm thức như yêu thương, hờn giận, tiếc nuối, hy vọng, lo buồn, sợ hãi, ghét bỏ, thông minh, đần độn..., tất cả đều là vô thường), sau đó mọi thứ khác cũng sẽ chuyển động theo (người thân, bạn hữu, của cải, danh vọng, thông thái, dốt nát... cũng đều là vô thường, cũng chẳng khác gì như thân xác và các tư duy hỗn độn trong tâm thức mình). Hãy nghĩ đến những chuyện ấy trong khi thưởng thức một món ăn ngon (không nên để cho các giác cảm thích thú - cũng như đớn đau - mang tính cách nhất thời có thể che khuất hiện thực và đánh lạc hướng sự quán nhận của mình về bản chất của mọi hiện tượng). Hãy nghĩ rằng: "Chẳng có gì chắc chắn cả" (đang ăn ngon thế nhưng món ăn chưa chắc thật sự là ngon như mình tưởng, hãy liên tưởng đến thí dụ vừa được nêu lên trên đây). Mỗi khi các phản ứng (có nghĩa là những sự cảm nhận và diễn đạt của tâm thức) nổi lên thì phải hạ chúng đo ván ngay, không nên để chúng cho mình do ván. Mỗi khi cảm thấy không thích một thứ gì đó (tình trạng bất toại nguyện) thì quý vị đành nhận chịu khổ đau: đấy là cách để cho hoàn cảnh hạ mình đo ván! Thái độ(thụ động) đó không thể giúp quý vị vật ngã các hoàn cảnh khó khăn và cho chúng đo ván được.
            Hãy chuyên cần luyện tập trong bất cứ tư thế nào: dù là đang ngồi, đang đi, đang đứng hay đang nằm. Bởi vì dù là mình đang ngồi, đang đứng, đang đi hay đang nằm, thì nóng giận vẫn cứ có thể bùng lên với mình được, hoặc một sự thèm muốn nào đó cũng có thể hiện lên dù là mình đang trong tư thế nào. Vì thế không nên mâu thuẫn với chính mình (tự lừa dối mình) mà phải luyện tập trong bất cứ tư thế nào (không nên vin vào một lý do thiếu chánh đáng nào cả để tránh né việc luyện tập). Nhất là không nên luyện tập cho có, mà phải cố gắng một cách nghiêm chỉnh! Trong lúc đang ngồi hành thiền biết đâu cũng có thể hiện ra trong tâm thức mình một khó khăn nào đó (chẳng hạn như bỗng dưng cảm thấy buồn bực, sợ hãi, giận dữ, ganh tị, thèm muốn...), thế nhưng chưa kịp dẹp xong khó khăn ấy thì một khó khăn khác lại hiện ra. Vậy quý vị hãy tự nhủ: "Chưa chắc đúng, chưa chắc đúng là như thế!" Đấy là cách giúp mình nghi ngờ (tính cách đích thật của) các tư duy ấy (tức là các khó khăn hiện ra với mình) và phải hạ chúng đo ván ngay tức khắc, trước khi chúng có thể cho mình đo ván! (xin nhắc lại là tất cả các tư duy và xúc cảm hiện ra trong đầu mình chỉ là những sự diễn đạt chủ quan của tâm thức ảnh hưởng bởi tác động của nghiệp, chúng không hàm chứa một thực thể nào cả, tức có nghĩa là "Chưa chắc đúng là như thế!", nói cách khác là các tư duy và xúc cảm ấy không mang một tính cách khách quan và vững chắc nào, tức không hàm chứa một sự hiện hữu nội tại và tuyệt đối nào cả. Do đó nhà sư Ajahn Chah khuyên chúng ta phải xem những thứ ấy "không đúng thật là như thế" và phải cho chúng đo ván ngay. Bởi vì nếu cho chúng là đúng để nắm bắt chúng, bám víu vào chúng thì đấy chính là cách gây ra mọi thứ khó khăn cho mình. Cách giảng của nhà sư Ajahn Chah rất thực tế và phi lý thuyết: ông chỉ khuyên chúng ta trong khi hành thiền nếu có những khó khăn - chẳng hạn như thèm muốn, thích thú, vui sướng, giận giữ, bám víu..., tức là mọi sự diễn đạt và cảm nhận của tâm thức - hiện ra thì phải nhắc nhở mình ngay là "Chưa chắc là đúng như thế" và hãy vật cho chúng đo ván ngay lập tức. Phương pháp "hạ ngay các thứ khó khăn khiến cho chúng phải đo ván" là cách mà nhà sư Ajahn Chah đưa ra để khuyên những người chất phác, thật thà có thể "hành thiền" mà không cần phải vận dụng đến lý thuyết hay trí tuệ lôi thôi gì cả! Xin chắp tay bái phục thêm một lần nữa những lời giảng thật thiết thực và đơn giản của nhà sư Ajahn Chah về những gì hết sức thâm sâu trong Đạo Pháp).
Vài lời ghi chú của người dịch
            Qua ba bài chuyển ngữ trên đây (bài 1 của vị Lạt-ma Ringou Tulkou Rinpoché, bài 2 của Thiền sư Pierre Dôkan Crépon và bài 3 trên đây của vị Tỳ kheo Theravada Ajahn Chah) vấn đề thiền định được nhìn dưới ba góc cạnh khác nhau. Vậy chúng ta có thể rút tỉa được những gì từ ba góc nhìn ấy?
Ba góc nhìn nhưng chỉ có một con đường
            Tuy rằng Đạo Pháp chỉ có một, phương tiện chỉ có một tức là phép thiền định, và cứu cánh cũng chỉ có một tức là sự giải thoát con người khỏi mọi khổ đau, thế nhưng thoạt nhìn thì mỗi tông phái đều nhìn vào các phương tiện một cách khá khác biệt nhau. Đấy là nguyên nhân chính yếu nhất đã khiến cho Đạo Pháp nguyên thủy của Đức Phật trở thành đa dạng và phức tạp. Điều đó không tránh khỏi làm cho một số người tu tập phải hoang mang. May mắn thay Đạo Pháp luôn chỉ là một, cứu cánh cũng chỉ là một, nhờ đó tuy việc tu tập được dựa vào nhiều phương pháp và nguyên tắc khác nhau, thế nhưng những người tu tập theo các tông phái khác nhau ấy đều cảm thấy rằng giữa họ với nhau thì tất cả cũng chỉ là những người đồng hành cùng đi trên một con đường.
            Bài thứ nhất nêu lên quan điểm về thiền định của Kim Cương Thừa. Nguyên tắc chung của tông phái này là chuyển hoá tất cả những gì tiêu cực nhằm hướng chúng vào việc tu tập, nói cách khác là biến sức mạnh tàn phá của chúng trở thành sức mạnh tích cực mang lại sự giải thoát cho mình và cho kẻ khác. Chẳng hạn như chúng ta vẫn thường nghe các vị thầy Kim Cương Thừa giảng rằng: phải yêu thương kẻ thù của mình như là một vị thầy quý giá nhất vì chính họ sẽ tập cho mình sự nhẫn nhục, tha thứ và yêu thương, v.v.
            Đối với vấn đề thiền định thì vị Lạt-ma Ringou Tulkou phân chia sự vận hành của tâm thức ra thành hai thể dạng: tâm thức yên tĩnh hay thư giãn (nepa) và tâm thức năng động (gyurwa) tức có nghĩa là đang làm việc. Trong thể dạng năng động, tư duy và xúc cảm sẽ dấy lên, tâm thức thì tìm tòi hết chuyện này đến chuyện khác... Đối với một người hành thiền theo Kim Cương Thừa thì không nên tìm cách ngăn chận không cho tâm thức làm việc mà chỉ ý thức và kiểm soát các công việc mà nó đang làm, nhằm giúp mình theo dõi và canh chừng những công việc của nó (không cho nó làm những chuyện xằng bậy).  
            Đối với thiền học Zen thì "trong tâm thức luôn dấy lên đủ mọi thứ tư duy, chúng có xu hướng nối kết và níu kéo nhau không bao giờ ngưng nghỉ". Vây hãy "đứng ra ngoài" và cứ để cho chúng tự tháo gỡ và tan biến đi, và nhất là không nên tham gia vào sự xúi dục của chúng để tránh không tạo ra cho mình mọi thứ xúc cảm, và nhờ đó các tư duy đơn giản hơn, không níu kéo nhau, cũng không chuyển tải những xung năng đủ loại, có thể hiện ra và trôi đi một cách tự nhiên và nhẹ nhàng hơn. 
            Đối với Phật Giáo Theravada thì thiền định là phải canh chừng tất cả mọi sự cảm nhận hiện ra trong tâm thức, không để cho chúng biến thành những sự diễn đạt dưới bất cứ hình thức nào - dù đấy là sự thích thú hay ghét bỏ - nhằm tránh không cho chúng lôi kéo mình trực tiếp tham gia vào những sự diễn đạt ấy của tâm thức. Nếu nói theo Ajahn Chah thì phải hạ chúng đo ván ngay lập tức, trước khi chúng xúi dục mình phạm vào những tác ý, ngôn từ và hành động sai lầm, bởi vì chúng ta không thể nào tin vào sự chính đáng và đích thật của chúng. Nếu nói theo chủ thuyết Trung Quán Luận của Long Thụ thì đấy là những sự lừa phỉnh, và nếu nói theo Duy Thức Học của Vô Trước thì đấy là những tạo dựng đơn thuần của tâm thức, không mang một thực thể nào cả.
            Những gì trên đây cho chúng ta thấy rằng cả ba tông phái tuy nhìn vấn đề thiền định từ ba góc cạnh khác nhau, thế nhưng trên căn bản thì các phương pháp tiếp cận của cả ba tông phái thật hết sức gần nhau và chủ đích cũng chỉ là một: giải thoát cho tâm thức khỏi mọi sự vướng mắc, ô nhiễm và bấn loạn, giúp tâm thức tìm về với bản thể vắng lặng và nguyên sinh của nó.  Tuy những điểm khác biệt chỉ mang tính cách thứ yếu, thế nhưng chúng lại là nguyên nhân làm phát sinh ra sự đa dạng của cả Phật Giáo nói chung.
Sự giác ngộ mang tính cách bất thần hay tuần tự
            Điểm đáng ghi nhận thứ hai là con đường thiền định đưa đến giác ngộ gồm có một chặng đường chuẩn bị, chặng đường này được xác định bởi hai giai đoạn: samâtha (sự tĩnh lặng) vàsamâdhi (sự định tâm). Kim Cương Thừa và Phật Giáo Theravada chủ trương người tu tập phải được chuẩn bị qua hai giai đoạn này trước khi có thể phát huy trí tuệ nhằm mang lại cho mình sự giác ngộ. Chỉ riêng Thiền Tông là chủ trương sự phát lộ bất thần của sự giác ngộ và không quan tâm đến giai đoạn chuẩn bị. Trong bài số 2, Thiền sự Pierre Dôkan Crépon có nói như sau: "Người hành thiền không hướng vào một mục đích nào, cũng không chờ đợi một sự thăng tiến tuần tự nào. Người hành thiền luyện tập một điều gì đó mà chính họ cũng không nói ra được."
            Chính điều này đã đưa đến nhiều khó khăn và hoang mang cho người tu tập. Dầu sao cũng cần phải lưu ý là Thiền Tông khi đưa ra quan điểm về một sự giác ngộ bất thần không phải là không có lý, bởi vì giác ngộ là một sự bừng tỉnh, một hình thức phát lộ hay bộc phát bất thần của sự hiểu biết. Tuy nhiên người ta cũng có thể nghĩ rằng sự hiểu biết hay giác ngộ có thể bộc phát theo từng cấp bậc một, trước khi quán thấy được Sự Giác Ngộ cuối cùng và tối thượng. Dầu sao thì quan điểm này cũng không liên quan đến chủ đề đang được bàn thảo, chúng ta chỉ cần hiểu rằng Thiền Tông giao khoán mọi sự chuẩn bị cho các vị Thầy đứng ra hướng dẫn các thiền sinh và những người tu tập. Nhận xét này cũng đã được Philippe Cornu nêu lên trong bài viết của ông về thiền định ("Nói chuyện thiền định, thế nhưng quý vị có hiểu thiền định là gì không", đã được chuyển ngữ). Chính sự giao khoán đó đã khiến thiền định trở nên phức tạp và khó nắm bắt cho một số người tu tập. Ngoài các ảnh hưởng do tánh khí của các vị thầy, Thiền Tông lại còn chịu ảnh hưởng quá nặng nề của các nền văn hoá địa phương và đã trở thành thật đa dạng, Thiền Trung Quốc (Chan) và thiền Nhật Bản (Zen) tuy chỉ là một, thế nhưng các hình thức màu mè mang tính cách bên ngoài thật hết sức đa dạng và khác biệt nhau. Dầu sao thì thiền Trung Quốc ngày nay cũng đã suy tàn và mai một, chỉ còn lại một chút vang bóng mà thôi. 
            Trong khi đó thì Kim Cương Thừa lại sử dụng mọi phương tiện phụ trợ như mạn-đà-la, các câu thần chú man-tra, các vị thần linh hỗ trợ, các nghi lễ cầu kỳ..., tất cả đều được quy định thật rõ rệt. Các phương pháp của Phật Giáo Theravada tương đối giản dị hơn, chỉ sử dụng phép quán nhìn vào thân xác và tâm thức, tức là theo dõi từng giác cảm hay sự cảm nhận xảy ra trên thân xác cũng như trong tâm thức để ý thức và chủ động chúng. Mỗi khi có một giác cảm hiện ra thì phải theo dõi, ý thức được nó và chận đứng không cho nó chuyển thành tác ý. Do đó cũng có thể nói là Phật Giáo Theravada chủ trương phải loại bỏ mọi xúc cảm bấn loạn từ "trong trứng" tức là từ khi chúng còn trong thể dạng nguyên nhân. Chuyện kể có một vị Thầy đang thuyết giảng cho các đệ tử, bỗng dưng gập cánh tay vào rồi lại duỗi thẳng ra, sau đó lại gập cánh tay vào. Các đệ tử ngồi nghe lấy làm lạ, một người vọt miệng hỏi rằng thầy đang giảng tại sao lại ngưng để gập tay vào, duỗi tay ra và lại gập tay vào như thế? Vị thầy trả lời rằng: "Ta gập tay vào, thế nhưng ta bị xao lãng và không ý thức được động tác của mình là đang gập tay vào, vì thế ta phải duỗi tay ra và lại gập tay vào để theo dõi và ý thức được các động tác trên thân xác của ta đấy thôi". Trái lại Kim Cương Thừa thì lợi dụng sức mạnh của các xúc cảm khi chúng đã phát sinh ra và Thiền Tông thì cố gắng "đứng ra ngoài và không tham gia" vào sự chuyển động của những thứ xúc cảm bấn loạn đang vận hành trong tâm thức và cứ để cho chúng trôi đi một cách tự nhiên.     
            Dầu sao thì cả ba tông phái đều chủ trương phải "buộc chặt tâm thức vào hiện tại" không cho nó phóng chạy tán loạn. Kim Cương Thừa gọi sự kiện đó là sống trong thực tại, Thiền Tông thì gọi là phát huy tâm linh tỉnh thức hay là sự tỉnh giác, Phật Giáo Theravada thì sử dụng phép theo dõi từng động tác trên thân thể, từng ngôn từ và từng tư duy trong tâm thức, như vừa được mô tả trên đây.   
Chú tâm vào một điểm
            Những gì vừa trình bày trên đây có thể gộp chung trong một phép luyện tập gọi là sự chú tâm vào một điểm. Điểm đó có thể là một chữ cái, một hòn đá cuội, một ảnh tượng của Đức Phật... Trong bài giảng trên đây Ajahn Chah gọi đấy là điểm "thăng bằng" của tâm thức. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể hiểu rộng hơn hay mở rộng ra thêm điểm duy nhất hay thăng bằng ấy.
            Thật vậy có mấy người trong chúng ta có thể tự nhận mình hiểu được rằng mình sống để làm gì hay không? Sự sống của mình có ý nghĩa như thế nào? Sở dĩ chúng ta không thể hiểu được tại sao chúng ta lại đang sống như thế này và đang hành xử như thế này, ấy chẳng qua là vì tâm thức mình luôn ở trong tình bị tán loạn, chi phối bởi bản năng sinh tồn và truyền giống, thúc đẩy bởi mọi thứ xung năng của nghiệp. Tâm thức do đó luôn lọt ra khỏi sự chủ động và quản lý của mình. Tóm lại là mình cũng không biết mình là ai, tại sao mình lại hành xử như thế, và thật sự là mình muốn gì và chờ đợi gì trong thế giới này. Chúng ta hoàn toàn lạc hướng trong sự sống vô cùng phức tạp, chi phối bởi đủ mọi thứ quy ước giả tạo và thừa hưởng những tác động của nghiệp luôn sôi sục trong tâm thức, do đó chúng ta không sao tìm được sự an bình thật sự và sâu xa trong tâm thức mình.
            Thiền định là trở về với chính mình nhờ một tâm thức biết hướng vào một điểm thăng bằng duy nhất, tức là không cho tâm thức phóng chạy tán loạn. Vậy chúng ta thử mở rộng thêm điểm duy nhất ấy để biến nó thành một lý tưởng nào đó trong cuộc sống của mình xem sao. Nếu biết mang lại một lý tưởng cho cuộc sống của mình và chú tâm vào lý tưởng ấy thì biết đâu cũng là cách mang lại cho mình một tâm thức an bình, trong sáng, và tinh khiết. Nếu mỗi đêm mình gối đầu lên lý tưởng đó để ngủ, khi thức dậy thì khoác nó lên người, sử dụng nó như một cơ sở chuyển tải từng hành động, ngôn từ và tư duy của mình thì đấy cũng là một cách chú tâm vào một điểm giúp mình hiểu được là mình sống để làm gì, và nhất là giúp mình trở về với bản thể nguyên sinh của chính mình.
            Đức Phật, chỉ có hai chiếc áo cà-sa và một chiếc áo ấm, hai tay ôm bình bát và đi chân đất trong suốt bốn mươi lăm năm trên khắp nẻo đường hoằng Pháp. Chiếc bình bát để khất thực, múc nước uống và tắm gội ở các bờ sông hay trong các con suối hai bên đường. Chiếc áo cà-sa ngoài việc che thân còn được gấp lại để ngồi thuyết giảng và để gối đầu trong giấc ngủ, và lần gối đầu cuối cùng là ở giữa hai gốc cây sa-la. Đấy là sự chú tâm vào một lý tưởng duy nhất: tình thương người, thương từng mỗi người trong chúng ta hôm nay. Đấy cũng là sự chú tâm vào một điểm duy nhất của một bậc Vĩ  Nhân của nhân loại.
     Bures-sur-Yvette, 06.11.13
                                                                                      Hoang Phong chuyển ngữ